QUỐC HỘI _________
QUỐC HỘI
_________
Nghị quyết số: 56/2010/QH12 |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
___________
|
NGHỊ
QUYẾT
VỀ VIỆC
THI HÀNH LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ Hiến
pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 đã
được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
QUYẾT
NGHỊ:
Điều 1
Luật tố tụng hành chính được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2010, có hiệu
lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2011.
Điều 2
1. Kể từ ngày Luật tố tụng hành
chính được công bố đến ngày Luật này có hiệu lực:
a) Thời hạn kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
trước ngày Luật tố tụng hành chính được công bố thì áp dụng theo quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều 69 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính;
b) Thời hạn đề nghị xem xét
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật từ ngày Luật tố
tụng hành chính được công bố thì áp dụng theo quy định tại các điều 211, 215 và
236 của Luật tố tụng hành chính;
c) Thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm bản án, quyết định nêu tại điểm a và điểm b khoản này được thực hiện theo
quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
2. Kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực:
a) Đối với những vụ án hành chính đã được Toà án thụ lý trước ngày Luật tố tụng
hành chính có hiệu lực, nhưng kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực mới
xét xử sơ thẩm thì áp dụng Luật tố tụng hành chính để giải quyết;
b) Đối với những vụ án hành chính đã được Tòa án xét xử sơ thẩm trước ngày Luật
tố tụng hành chính có hiệu lực mà có kháng cáo, kháng nghị, nhưng kể từ ngày
Luật tố tụng hành chính có hiệu lực mới xét xử phúc thẩm thì áp dụng Luật tố
tụng hành chính để giải quyết;
c) Đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà bị kháng nghị
giám đốc thẩm, tái thẩm trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực nhưng kể
từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực mới xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
thì áp dụng Luật tố tụng hành chính để giải quyết;
d) Đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có đơn đề nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm trong thời gian kể từ ngày Luật tố tụng hành chính được công
bố cho đến ngày Luật này có hiệu lực mà chưa có kháng nghị của người có thẩm
quyền, thì việc kháng nghị được thực hiện theo Luật tố tụng hành chính;
đ) Đối với những vụ án hành chính đã được Toà án xét xử và bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu
lực mà kể từ ngày Luật này có hiệu lực mới kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
thì căn cứ để thực hiện việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
3. Đối với các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày
Luật tố tụng hành chính có hiệu lực, nhưng đến ngày Luật tố tụng hành chính có
hiệu lực vẫn chưa được thi hành hoặc chưa thi hành xong thì được thi hành theo
quy định của Luật tố tụng hành chính.
Điều 3
Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực, người
khiếu nại đã thực hiện việc khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính
về quản lý đất đai đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ
ngày 01 tháng 6 năm 2006 đến ngày Luật này có hiệu lực, nếu khiếu nại không được
giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết
định giải quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy
định của Luật tố tụng hành chính.
Điều 4
1. Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Chính phủ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình
khẩn trương củng cố cơ sở vật chất; bổ sung, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối
với đội ngũ công chức của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi
hành án dân sự để bảo đảm đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ án và thi hành án
hành chính khi Luật tố tụng hành chính có hiệu lực thi hành.
2. Chính phủ, Toà án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên của Mặt trận tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Luật tố tụng
hành chính trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân nhằm góp phần tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy tác dụng của Luật tố tụng hành chính
trong bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức.
3. Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm thực hiện và hướng dẫn thi hành Nghị quyết này.
__________________________________________________________________
Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2010.
|
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
(đã ký)
Nguyễn Phú Trọng |