BỘ TƯ PHÁP
Số: 73/TCBC-BTP
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 10 tháng 01 năm 2022
|
THÔNG CÁO
BÁO CHÍ
Văn bản quy
phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
ban hành trong tháng 12 năm 2021
________________________________________
Thực hiện khoản 2, khoản
3 Điều 12 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, Bộ Tư pháp ra Thông cáo
báo chí về văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành
trong tháng 12 năm 2021 như sau:
I. DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT ĐƯỢC BAN HÀNH
Trong tháng 12năm 2021,
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật như
sau:
Các Nghị định của
Chính phủ:
1. Nghị định
số104/2021/NĐ-CPngày 04 tháng 12năm 2021 của Chính phủgia hạn thời hạn nộp thuế
tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước;
2. Nghị định số
105/2021/NĐ-CP ngày 04 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống ma túy;
3. Nghị định số
106/2021/NĐ-CP ngày 06 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều Luật Biên phòng Việt Nam;
4. Nghị định số
108/2021/NĐ-CP ngày 07 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ điều chỉnh lương hưu, trợ
cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng;
5. Nghị định số
110/2021/NĐ-CP ngày 09 tháng 12 năm 2021 của Chính phủbãi bỏ một số văn bản quy
phạm pháp luật của Chính phủ;
6. Nghị định số
112/2021/NĐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng;
7. Nghị định số
113/2021/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 120/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2017 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam;
8. Nghị định số
115/2021/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 08/2016/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm 2016 của Chính phủ quy
định số lượng Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và quy trình, thủ tục bầu, từ chức,
miễn nhiệm, bãi nhiệm, điều động, cách chức thành viên Ủy ban nhân dân;
9. Nghị định số
116/2021/NĐ-CP ngày 21 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của Luật Phòng, chống ma túy, Luật Xử lý vi phạm hành chính về cai nghiện
ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy;
10. Nghị định số
117/2021/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ quy
định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ;
11. Nghị định số
118/2021/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính;
12. Nghị định số
119/2021/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định về trình tự, thủ
tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ qua biên giới;
13. Nghị định số
120/2021/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng
biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
14. Nghị định số
121/2021/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ về kinh doanh trò chơi
điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài;
15. Nghị định số
123/2021/NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng
hải; giao thông đường bộ, đường sắt; hàng không dân dụng;
16. Nghị định số
125/2021/NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới;
17. Nghị định số
127/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 04/2021/NĐ-CP ngày 22 tháng 01 năm 2021 của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục;
18. Nghị định số
128/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 156/2020/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2020 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán;
19. Nghị định số
129/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du
lịch; thể thao; quyền tác giả, quyền liên quan; văn hóa và quảng cáo;
20. Nghị định số
130/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em;
21. Nghị định số
134/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2019 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng;
22. Nghị định số
136/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 27/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Luật Đo đạc và bản đồ;
23. Nghị định số
137/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực kinh doanh đặt cược và trò chơi có thưởng;
24. Nghị định số
138/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định về quản lý, bảo
quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu và giấy phép,
chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ theo thủ tục hành chính;
25. Nghị định số
139/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa;
26. Nghị định số
140/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc;
27. Nghị định số
143/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 88/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 11 năm 2019 quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng;
28. Nghị định số
144/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn
xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.
Các
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ:
1. Quyết định số
37/2021/QĐ-TTg ngày 18 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về Mạng bưu
chính phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước;
2.
Quyết định số 38/2021/QĐ-TTg ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11
năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện
quốc gia được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Quyết định số 02/2017/QĐ-TTg
ngày 17 tháng 01 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ;
3. Quyết định số
39/2021/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định nguyên
tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương và tỷ lệ vốn đối ứng
của ngân sách địa phương thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 -
2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025;
4. Quyết định số
40/2021/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về Quỹ Hỗ trợ
việc làm ngoài nước.
II. HIỆU LỰC THI
HÀNH, SỰ CẦN THIẾT,
MỤC ĐÍCH BAN HÀNH VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CÁCVĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1. Nghị định số
104/2021/NĐ-CP ngày 04 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ gia hạn thời hạn nộp thuế
tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước
a) Hiệu lực thi
hành:
Nghị định này có hiệu lực
thi hành kể từ ngày ký ban hành (ngày 04 tháng 12 năm 2021).
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
- Trong năm 2021, tình
hình đại dịch Covid – 19 vẫn đang diễn biến phức tạp trên thế giới, nhiều biến
chủng mới xuất hiện có tốc độ lây lan nhanh hơn và nguy hiểm hơn. Tại Việt Nam
đã tiếp tục có hai làn sóng Covid – 19 trong năm 2021: làn sóng Covid – 19 thứ
ba xuất hiện vào cuối tháng 01/2021 được khống chế trong khoảng 60 ngày; đặc
biệt làn sóng Covid – 19 thứ tư xuất hiện từ cuối tháng 04/2021 cho đến nay đã
lây lan nhanh chóng ra hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước, số lượng ca
nhiễm mới tăng nhanh chóng và kỷ lục, đặc biệt gây hậu quả khó khăn đối với các
tỉnh, thành phố như Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An…
-
Dự báo kinh tế thế giới
trong năm 2021 sẽ tiếp tục chịu tác động nghiêm trọng của đại dịch
Covid-19.
Sự sụt giảm tăng trưởng của các đối tác lớn đã tác động mạnh đến hoạt động sản
xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế của nước ta. Đặc biệt,
dịch Covid-19 bùng phát trở lại trong nước
vào cuối tháng 4/2021 trên phạm vi rộng hơn, khiến nhiều địa phương phải thực
hiện biện pháp giãn cách xã hội trên địa bàn tỉnh, thành phố, nhiều cơ sở kinh
doanh phải đóng cửa khiến nhiều người không có việc làm. Dịch bệnh Covid – 19
tại Việt Nam trong thời gian qua đã gây những ảnh hưởng tiêu cực đối với đà hồi
phục kinh tế và gây ảnh hưởng đến nhiều ngành nghề, lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh, trong đó có ngành sản xuất và lắp ráp ô tô trong nước.Để góp phần
hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh
doanh trong bối cảnh dịch Covid – 19, ngày 09/09/2021, Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 105/NQ-CP trong đó giao Bộ Tài chính
xem xét, nghiên cứu trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục gia hạn
thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước
đến hết năm 2021.
c) Nội dung chủ
yếu: -
Nghị định gồm 05 Điều:
Điều 1. Phạm vi
áp dụng
Điều 2. Đối
tượng áp dụng
Điều 3. Gia hạn
thời hạn nộp thuế
Điều 4. Trình
tự, thủ tục đề nghị gia hạn
Điều 5. Tổ chức
thực hiện và hiệu lực thi hành
- Nghị định áp
dụng đối với: doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước; cơ quan thuế; các
tổ chức, cá nhân khác có liên quan. Nghị định quy định việc gia hạn thời hạn nộp
thuế đối với số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp phát sinh của kỳ tính thuế tháng
10 và tháng 11 năm 2021 đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước, cụ thể như
sau:
+ Thời hạn nộp
thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp phát sinh của kỳ tính thuế tháng 10 năm 2021
chậm nhất là ngày 20 tháng 12 năm 2021.
+ Thời hạn nộp
thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp phát sinh của kỳ tính thuế tháng 11 năm 2021
chậm nhất là ngày 30 tháng 12 năm 2021.
Việc gia hạn áp
dụng đối với trường hợp kê khai bổ sung hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế được
gia hạn và áp dụng đối với trường hợp doanh nghiệp có các chi nhánh, đơn vị trực
thuộc có hoạt động sản xuất hoặc lắp ráp ô tô thực hiện kê khai thuế tiêu thụ
đặc biệt riêng với cơ quan thuế quản lý trực tiếp. Người nộp thuế thuộc đối
tượng được gia hạn gửi Giấy đề nghị gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt
(bằng phương thức điện tử; gửi bản giấy trực tiếp đến cơ quan thuế hoặc gửi qua
đường bưu điện) cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp một lần cho toàn bộ các kỳ
được gia hạn chậm nhất là ngày 15 tháng 12 năm 2021. Trong thời gian được gia
hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt, căn cứGiấy đề nghị gia hạn thời hạn nộp thuế
tiêu thụ đặc biệt, cơ quan thuế không tính tiền chậm nộp đối với số tiền thuế
tiêu thụ đặc biệt được gia hạn.
2. Nghị định số
105/2021/NĐ-CP ngày 04 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống ma túy
a) Hiệu lực thi
hành:
Nghị định này có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
Các văn bản sau đây hết
hiệu lực thi hành kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành:
Nghị định số80/2001/NĐ-CPngày
05 tháng 11 năm 2001 của Chính phủ hướng dẫn việc kiểm soát các hoạt động hợp
pháp liên quan đến ma túy ở trong nước;
Nghị định số58/2003/NĐ-CPngày
29 tháng 5 năm 2003 của Chính phủ quy định về kiểm soát nhập khẩu, xuất khẩu,
vận chuyển quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện,
thuốc hướng thần;
Nghị định số45/2009/NĐ-CPngày
13 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ hướng dẫn việc nhập khẩu mẫu, lấy mẫu, quản lý
sử dụng mẫu các chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần vì
mục đích quốc phòng, an ninh;
Quyết định số133/2002/QĐ-TTgngày
09 tháng 10 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp giữa lực
lượng Công an, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và Hải quan trong đấu tranh
phòng, chống các tội phạm về ma túy tại địa bàn biên giới, cửa khẩu và trên
biển;
Quyết định số52/2011/QĐ-TTgngày
21 tháng 9 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp kiểm soát
các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban
hành
+ Ngày
09/10/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp giữa các lực lượng
Công an, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và Hải quan trong đấu tranh phòng,
chống các tội phạm về ma túy tại địa bàn biên giới, cửa khẩu và trên biển (Quyết
định số 133/2002/QĐ-TTg). Trải qua 19 năm thực hiện, công tác phòng, chống ma
tuý của các lực lượng đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng: Đã phát huy được
vai trò chủ công, nòng cốt, đoàn kết gắn bó trong công tác phối hợp phòng, chống
tội phạm ma túy trên địa bàn cả nước nói chung và ở khu vực biên giới, cửa khẩu,
trên biển nói riêng; thực hiện tốt chức năng tham mưu với cấp ủy Đảng, chính
quyền các cấp huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân
tham gia công tác phòng, chống tội phạm ma túy; công tác phối hợp, hỗ trợ lẫn
nhau giữa các lực lượng trong trao đổi, xử lý, xác minh thông tin, xác lập, đấu
tranh chuyên án chung đã có nhiều chuyển biến, bước đầu phát huy hiệu quả, qua
đó triệt phá được nhiều đường dây tội phạm ma túy xuyên quốc gia, bắt giữ đối
tượng truy nã về ma túy, triệt xóa các điểm, tụ điểm ma túy phức tạp, góp phẩn
bảo đảm an ninh trật tự ở trong nước và các địa bàn trọng điểm.
+ Hiện
nay, công tác kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy của Việt Nam
được thực hiện trên cơ sở nội dung của 03 công ước quốc tế gồm: Công ước thống
nhất về các chất ma túy năm 1961, sửa đổi theo Nghị định thư năm 1972; Công ước
quốc tế về các chất hướng thần năm 1971 và Công ước Liên hợp quốc về chống buôn
bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hướng thần năm 1988. Đồng thời thực
hiện căn cứ vào các văn bản pháp luật: Luật phòng, chống ma túy năm 2000, sửa
đổi năm 2008; các Nghị định: Nghị định số 80/2001/NĐ-CP ngày 05/11/2001 của
Chính phủ hướng dẫn các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy trong nước; Nghị
định số 58/2003/NĐ-CP ngày 29/5/2003 của Chính phủ quy định về kiểm soát nhập
khẩu, xuất khẩu, vận chuyển quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất,
thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần; Nghị định số 45/2009/NĐ-CP ngày 13/5/2009
của Chính phủ hướng dẫn việc nhập khẩu mẫu, lấy mẫu, quản lý, sử dụng mẫu các
chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần vì mục đích quốc
phòng, an ninh; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ ban hành
danh mục các chất ma túy và tiền chất và Nghị định số 60/2020/NĐ-CP ngày
29/5/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 73; Quyết định số
52/2011/QĐ-TTg ngày 21/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp
kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy và thông tư của Bộ Công an
hướng dẫn thực hiện các Nghị định.
Với sự
điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật, tuân thủ 03 Công ước quốc tế; sự vào
cuộc của các cấp, các ngành và nhân dân, công tác kiểm soát các hoạt động hợp
pháp liên quan đến ma túy của Việt Nam thời gian qua đã được thực hiện nghiêm
túc, hiệu quả, không xảy ra thất thoát vào các hoạt động bất hợp pháp; không để
Việt Nam trở thành địa bàn sản xuất ma túy trái phép, gây phức tạp về an ninh
trật tự.
+ Đối
với công tác quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, thời gian qua cùng với
công tác phòng, chống ma túy nói chung, công tác này bước đầu được quan tâm thực
hiện. Hành vi sử dụng trái phép theo Bộ luật hình sự năm 1999 được coi là tội
phạm ma túy, bị xử lý theo quy định của pháp luật với hình phạt cao nhất hai
năm, tái phạm tội có thể bị phạt tù đến năm năm; bị xử phạt vi phạm hành chính
(theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ) với số tiền từ 500.000 đồng đến
1.000.000 đồng. Qua đó, đã có tác dụng răn đe tội phạm, góp phần hạn chế tình
trạng sử dụng trái phép chất ma túy, nhất là trong thanh thiếu niên.
+ Công
tác phối hợp liên ngành trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy tại địa
bàn biên giới, cửa khẩu và trên biển thời gian qua mặc dù đã đạt được nhiều kết
quả rất quan trọng, nhưng quá trình tổ chức thực hiện cũng bộc lộ nhiều khó
khăn, bất cập dẫn đến hoạt động vận chuyển trái phép chất ma túy qua biên giới
vẫn có chiều hướng gia tăng mạnh trong những năm gần đây; nhiều đường dây vận
chuyển trái phép chất ma túy với số lượng lớn từ nước ngoài vào Việt Nam mà chưa
bị phát hiện; xuất hiện một số đường dây có sự liên kết giữa các đối tượng trong
và ngoài nước để mua bán, vận chuyển tiền chất với số lượng lớn, phục vụ sản
xuất trái phép chất ma túy.
Nguyên
nhân là do công tác phối hợp giữa các lực lượng còn bộc lộ nhiều bất cập, khó
khăn, vướng mắc, đáng chú ý là: (1) Việc phối hợp tuần tra, phòng chống tội phạm
ma túy tại địa bàn biên giới, cửa khẩu, trên biển chưa được thực hiện thường
xuyên, hiệu quả chưa cao, trách nhiệm của từng lực lượng chưa rõ ràng; (2) Hiệu
quả công tác kiểm soát ma túy tại địa bàn biên giới, cửa khẩu vẫn chưa tương
xứng với tình hình thực tế, vẫn xảy ra tình trạng tội phạm lợi dụng chính sách
thông thoáng của nhà nước đối với hoạt động xuất, nhập khẩu, lợi dụng cơ chế
“luồng xanh” để thông quan hàng hóa, giấu ma túy lẫn trong các công- ten- nơ vận
chuyển trái phép đi nước ngoài với số lượng lớn; (3) Việc giải quyết các địa bàn
trọng điểm, tuyến phức tạp về ma túy vẫn chưa triệt để, hiệu quả công tác phát
hiện, ngăn chặn sự gia tăng người nghiện ma tuý mới và tổ chức cai nghiện ma tuý
còn nhiều hạn chế; (4) Công tác phối hợp thực hiện các biện pháp nghiệp vụ, điều
tra, xử lý tội phạm có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức, còn chồng chéo,
chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Cá biệt có trường hợp còn cản trở lẫn
nhau khi thực hiện các biện pháp nghiệp vụ phòng, chống tội phạm ma túy tại địa
bàn biên giới, cửa khẩu và trên biển; (5) Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy
của mỗi lực lượng có sự khác nhau và thay đổi qua từng giai đoạn, trong khi đó
hành lang pháp lý, nhất là cơ chế phối hợp giữa các lực lượng chưa phù hợp, còn
chồng chéo, trùng dẫm, chậm được bổ sung, hoàn thiện; (6) Một số văn bản quy
phạm pháp luật được viện dẫn trong Quyết định số 133/2002/QĐ-TTg đã hết hiệu lực
hoặc được thay thế, sửa đổi, bổ sung...
+ Công
tác kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy được quy định ở nhiều
văn bản khác nhau và một số nội dung không còn phù hợp với thực tiễn, cụ thể là:
(1) Nội dung quy định về công tác kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến
ma túy được quy định ở nhiều văn bản, trong khi một số vấn đề đã được quy định ở
văn bản quy phạm pháp luật khác mới hơn; (3) Một số quy định tại các văn bản đối
với thực tế công tác kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy đã
không còn phù hợp, còn thiếu các nội dung như hoạt động kiểm soát, phối hợp kiểm
soát trong lĩnh vực Hải quan; chức năng, nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn; chế độ báo cáo chưa phù hợp với xu thế phát
triển Chính phủ điện tử và cơ chế hành chính một cửa quốc gia, gây khó khăn
cho cơ quan quản lý và doanh nghiệp trong quá trình thực hiện..; (3) Mô hình tổ
chức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có nhiều thay đổi; nội dung các quy
định chưa điều chỉnh hết các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy mới phát
sinh hiện nay như: thiếu hoạt động tạm xuất, tái nhập và một số hoạt động trong
lĩnh vực quốc phòng, an ninh; thiếu các chất được kiểm soát là thuốc tiền chất,
thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất và nguyên liệu làm thuốc...; (4) Các
quy định về trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương chưa cụ thể và thống nhất,
đặc biệt là trong công tác phối hợp kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan
đến ma túy ở các cấp, dẫn đến việc thực hiện không đảm bảo nguyên tắc, chưa chú
trọng thực hiện công tác kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy ở
trong nước mà chỉ kiểm soát, quản lý ở hoạt động khẩu xuất, nhập khẩu, chưa kiểm
soát đến sản phẩm cuối cùng; (5) Việc triển khai hoạt động phối hợp kiểm soát
các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy ở địa phương theo Quyết định
52/2011/QĐ-TTg chưa hiệu quả dẫn các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp có hoạt
động hợp pháp liên quan đến ma túy chưa được quan tâm thực hiện, hoặc còn mang
tính hình thức, dẫn đến tình trạng buông lỏng quản lý gây nguy cơ thất thoát...
+
Những năm gần đây, dưới áp lực của tình hình ma túy quốc tế, khu vực và trong
nước cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng các
ngành công nghiệp, dịch vụ với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các cơ sở kinh
doanh có điều kiện về an ninh trật tự (vũ trường, quán bar, nhà hàng, karaoke,
lễ hội âm nhạc..) làm gia tăng tình trạng sử dụng trái phép chất ma túy, nhất là
trong thanh thiếu niên, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Trong
khi nhận thức, quan điểm của một số cấp ủy Đảng, chính quyền và người dân về hậu
quả, tác hại của việc sử dụng trái phép chất ma túy chưa đầy đủ, chưa có giải
pháp căn cơ đối với vấn đề này.
Hành
vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung
2009 không bị coi là tội phạm, chỉ bị xử lý theo quy định của pháp luật về xử lý
vi phạm hành chính với mức xử phạt chưa đủ sức răn đe; chưa có chế tài quy định
xử phạt (hoặc cưỡng chế) đối với người không chấp hành việc xét nghiệm chất ma
túy có trong cơ thể khi cơ quan chức năng có căn cứ xác định người đó sử dụng
trái phép chất ma túy; chưa có cơ chế để quản lý hiệu quả người sử dụng trái
phép chất ma túy nên đã gây ra tình trạng mất an ninh, trật tự nghiêm trọng ở
nhiều nơi mà nguyên nhân xuất phát từ những người sử dụng trái phép chất ma túy,
nhất là người sử dụng ma túy tổng hợp bị “loạn thần”, không kiểm soát được hành
vi. Nếu thực hiện hiệu quả việc quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy ngay
từ lần đầu sử dụng sẽ có tác động giảm số người nghiện ma túy; giảm nguồn cầu về
ma túy, kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi nguy hiểm, hậu quả gây ra cho xã
hội của người sử dụng trái phép chất ma túy; đồng thời tư vấn, giúp đỡ, động
viên, giáo dục họ từ bỏ ma túy.
Với những lý do nêu trên,
việc xây dựng Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Phòng, chống ma túy về phối hợp của các cơ quan chuyên trách phòng, chống
tội phạm về ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy và
quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy là yêu cầu cấp thiết, khách quan,
nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong
thời gian tới, góp phần bảo đảm an ninh trật tự của đất nước và cuộc sống bình
yên, hạnh phúc của nhân dân.
- Mục đích ban hành
+ Tiếp tục thể chế hóa
chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác phòng,
chống ma túy; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về
phòng, chống ma túy;
+ Khắc phục những khó
khăn, vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện các quy định hiện hành có liên
quan; góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý chặt chẽ, thuận lợi, bảo đảm sự đồng bộ
thống nhất trong hệ thống pháp luật quy định về hoạt động phối hợp giữa Công an,
Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và Hải quan trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm về ma túy tại địa bàn biên giới, cửa khẩu và trên biển; kiểm soát các hoạt
động hợp pháp liên quan đến ma túy và quản lý người sử dụng trái phép chất ma
túy; đáp ứng được những yêu cầu nhiệm vụ phòng, chống ma túy trong tình hình
mới, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
c) Nội dung chủ yếu:
Chương
I:Quy định
chung
Quy định về
phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, nguyên tắc thực hiện, giải thích từ ngữ.
- Về phạm vi
điều chỉnh: Nghị định này quy định về nguyên tắc, nội dung, hình thức, trách
nhiệm phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy
thuộc Công an nhân dân, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và Hải quan trong thực
hiện công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm về ma túy tại khu vực biên
giới, cửa khẩu và trên biển; quy định về kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên
quan đến ma túy và quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy.
- Về đối tượng áp dụng:
Nghị
định này áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến công tác
phối hợp phòng, chống tội phạm về ma túy, kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên
quan đến ma túy, quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy.
- Về nguyên tắc thực hiện: Nghị định này quy định các nguyên tắc
thực hiện công tác
phối hợp của
các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy; kiểm soát các hoạt
động hợp pháp liên quan đến ma túy và quản lý người sử dụng trái phép chất ma
túy.
- Về giải thích
từ ngữ: Giải thích một số từ ngữ để thống nhất cách hiểu trong Nghị định này.
Chương
II:Phối
hợp của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy
Quy định cụ thể
về các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy; nội dung và hình
thức phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy
thuộc Công an nhân dân, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và Hải quan trong thực
hiện công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm về ma tuý.
- Về nội dung
phối hợp: Phối hợp tham mưu, chỉ đạo; phối hợp tuyên truyền, vận động nhân dân;
phối hợp trao đổi thông tin; phối hợp thực hiện các biện pháp nghiệp vụ; phối
hợp đấu tranh chuyên án và điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc cụ thể; các nội
dung phối hợp khác (đào tạo, huấn luyện, hợp tác quốc tế…).
- Về hình thức
phối hợp: Trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu, tình hình liên quan đến nội
dung phối hợp giữa các các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy
thông qua các hình thức làm việc trực tiếp, qua các phương tiện thông tin, gửi
văn bản…; thành lập Tổ công tác phối hợp liên ngành; quy định chi tiết về công
tác giao ban; chế độ báo cáo, thống kê giữa các cơ quan chuyên trách phòng,
chống tội phạm về ma túy .
Chương
III:Kiểm
soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy
Quy định cụ thể
về kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy, gồm các nội dung cụ
thể:
- Mục 1:
Kiểm soát các hoạt động nghiên cứu, giám định, sản xuất, vận chuyển chất ma túy,
tiền chất và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất. Quy định các cơ quan có
thẩm quyền cho phép và cơ quan, tổ chức, cá nhân được tiến hành các hoạt động
nghiên cứu, giám định, sản xuất, vận chuyển chất ma túy, tiền chất và
thuốc thú y có chứa tiền chất;
kiểm
soát hoạt động nghiên cứu chất ma túy, tiền chất; kiểm soát hoạt động sản xuất
chất ma túy, tiền chất và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất; kiểm soát
hoạt động vận chuyển chất ma túy, tiền chất; kiểm soát các hoạt động liên quan
đến thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất.
- Mục 2: Kiểm
soát các hoạt động nhập khẩu, xuất khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập
và quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc
hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược
chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc và thuốc thú y có chứa chất ma túy,
tiền chất. Quy định cơ quan có thẩm quyền cho phép và cơ quan, tổ chức, cá nhân
được tiến hành hoạt động nhập khẩu, xuất khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái
nhập và quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện,
thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây
nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc và thuốc thú y có chứa
chất ma túy, tiền chất; kiểm soát hoạt động nhập khẩu, xuất khẩu chất ma túy,
tiền chất và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất; kiểm soát hoạt động tạm
nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện,
thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây
nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc và thuốc thú y có chứa
chất ma túy, tiền chất; kiểm soát hoạt động quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma
túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu
làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất
hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền
chất.
- Mục 3: Kiểm
soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy vì mục đích quốc phòng, an
ninh. Quy định cơ quan có thẩm quyền cho phép và các cơ quan, đơn vị được tiến
hành các hoạt động hợp pháp liên quan ma túy vì mục đích quốc phòng, an ninh;
kiểm soát hoạt động nghiên cứu, giám định, sản xuất chất ma túy, tiền chất; nhập
khẩu, xuất khẩu và vận chuyển chất ma túy, tiền chất; hoạt động bảo quản, tồn
trữ, phân phối, sử dụng, xử lý, trao đổi chất ma túy, tiền chất; nhập khẩu mẫu,
lấy mẫu chất ma túy; bảo quản, phân phối, sử dụng mẫu chất ma túy; xử lý mẫu
chất ma túy vì mục đích quốc phòng, an ninh; lập dự trù, hồ sơ, chế độ báo cáo
và kinh phí; trách nhiệm giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm.
- Mục 4: Lập hồ
sơ và chế độ báo cáo các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy. Quy định việc
lập hồ sơ; chế độ báo cáo và lập dự trù.
- Mục 5: Phối
hợp kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy. Quy định nội dung
phối hợp và cơ chế phối hợp kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma
túy; Tổ Công tác liên ngành phối hợp kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan
đến ma túy các cấp.
Chương
IV: Quản
lý người sử dụng trái phép chất ma túy
Quy định về
công tác quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy:
- Đối tượng quản lý;
xác định người có hành vi sử dụng trái phép hất ma túy; kinh phí cho việc thực
hiện biện pháp quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy.
- Thu thập
thông tin, tài liệu để lập Hồ sơ quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy;
xác minh nơi cư trú và gửi hồ sơ.
- Quyết
định quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; thời hạn quản lý và cách tính
thời hạn quản lý; nội dung quản lý; xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể trong
thời hạn quản lý; xử lý trường hợp người bị xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể
không chấp hành xét nghiệm; giám sát việc chuyển đi khỏi nơi cư trú;dừng
quản lý người sử dụng
trái phép chất ma túy;
công tác quản lý và lưu trữ hồ sơ quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy.
Chương
V:Trách
nhiệm của cơ quan
Quy định
cụ thể về trách nhiệm của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Y tế,
Bộ Công thương,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Chương
VI: Tổ
chức thực hiện
Quy định về
kinh phí thực hiện; quy định chuyển tiếp; hiệu lực và trách nhiệm thi hành.
Ban hành kèm
theo Nghị định Phụ lục các Biểu mẫu quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật phòng, chống ma túy, cụ thể: (1) Đơn đề nghị cấp giấy phép nhập
khẩu (xuất khẩu); (2) Giấy phép nhập khẩu (xuất khẩu) bản tiếng Việt; (3) Giấy
phép/Import (Export) Licences nhập khẩu (xuất khẩu) bản tiếng Anh; (4) Phiếu kết
quả xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể; (5) Thông báo về hành vi sử dụng trái
phép chất ma túy; (6) Bản tóm tắt lý lịch người sử dụng trái phép chất ma túy;
(7) Bản tường trình; (8) Quyết định áp dụng biện pháp quản lý người sử dụng trái
phép chất ma túy; (9) Thông báo về việc chuyển hồ sơ quản lý người sử dụng trái
phép chất ma túy; (10) Quyết định dừng quản lý người sử dụng trái phép chất ma
túy; (11) Quyết định chấm dứt quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy.
3. Nghị định số
106/2021/NĐ-CP ngày 06 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều Luật Biên phòng Việt Nam
a) Hiệu lực thi
hành:
Nghị định có hiệu lực thi
hành từ ngày 21/01/2022.
Nghị định số
02/1998/NĐ-CP ngày 06/01/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng hết hiệu lực kể từ ngày Nghị định này có
hiệu lực; Điều 12 Nghị định số 02/1998/NĐ-CP tiếp tục có hiệu lực thi hành cho
đến khi được bãi bỏ, thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật khác.
Điều 6 Thông tư số
2866/1998/TT-BQP ngày 12/9/1998 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 02/1998/NĐ-CP; Thông tư liên tịch số 2076/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC ngày
08/7/1998 của Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính
về thực hiện một số chính sách đối với Bộ đội Biên phòng; Thông tư liên tịch số
35/2004/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC ngày 24/3/2004 của Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính về việc sửa đổi, bổ sung một số điều tại
Thông tư liên tịch số 2076/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC ngày 08/7/1998 của Bộ Quốc
phòng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính về thực hiện một số
chính sách đối với Bộ đội Biên phòng tiếp tục có hiệu lực thi hành cho đến khi
có chế độ, chính sách mới đối với cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng được ban
hành.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
- Quy định chi tiết
các điều khoản Luật Biên phòng Việt Nam giao về hệ thống tổ chức,
chính sách ưu đãi và chế độ đặc thù đối với cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng;
phối hợp giữa Bộ Quốc
phòng với bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương trong thực thi nhiệm vụ
biên phòng.
- Tạo cơ sở pháp lý để
xác định rõ hệ thống tổ chức của Bộ đội Biên phòng, chính sách ưu đãi, chế độ
đặc thù đối với cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng và trách nhiệm của Bộ Quốc
phòng, các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương trong thực thi nhiệm vụ
biên phòng đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành.
- Bảo đảm các quy
định tại Nghị định phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước về hệ thống tổ chức của Bộ đội Biên phòng, chính sách ưu đãi, chế độ đặc
thù đối với cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng; chức năng, nhiệm vụ của các bộ,
cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương trong thực thi nhiệm vụ biên phòng;
bảo đảm tính hợp hiến, thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật
hiện hành và bảo đảm thống nhất quản lý nhà
nước về biên phòng.
c) Nội dung chủ yếu:
Nghị định gồm 04 chương
29 điều, quy định chi tiết về hệ thống tổ chức; chính sách ưu đãi và chế độ đặc
thù đối với Bộ đội Biên phòng; phối hợp giữa bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền
địa phương trong thực thi nhiệm vụ biên phòng; đối tượng áp dụng: Đối với cơ
quan, đơn vị, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên và các cơ quan, đơn vị, tổ chức,
cá nhân có liên quan.
Nội dung chủ yếu:
Quy định chi tiết về hệ thống tổ chức; chính sách ưu đãi và chế độ đặc thù đối
với Bộ đội Biên phòng; phối
hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương trong thực thi nhiệm
vụ biên phòng.
4. Nghị định số
108/2021/NĐ-CP ngày 07 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ điều chỉnh lương hưu, trợ
cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng
a) Hiệu lực thi
hành:
Nghị
định này có hiệu lực thi hành từ ngày 20 tháng 01 năm 2022. Các quy định tại
Nghị định này được thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
- Sự cần thiết:
+
Cơ sở pháp lý
Căn cứ quy định tại Điều 57 Luật Bảo hiểm xã hội thì “Chính phủ quy định việc
điều chỉnh lương hưu trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng và tăng trưởng
kinh tế phù hợp với ngân sách nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội”.
Theo văn bản số 63/VPCP-TH ngày 11/01/2021 của Văn phòng Chính phủ về chương
trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ năm 2021; Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội được giao nhiệm vụ xây dựng Nghị định điều chỉnh lương hưu, trợ
cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng.
+
Cơ sở thực tiễn
Lần gần nhất Chính phủ thực hiện điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội
và trợ cấp hằng tháng là từ ngày 01/7/2019 theo quy định tại Nghị định số
44/2019/NĐ-CP ngày 20/5/2019 của Chính phủ.
Trong năm 2020 và năm 2021, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên việc điều
chỉnh theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội chưa được thực hiện. Theo số liệu
do Tổng cục Thống kê công bố, chỉ số giá tiêu dùng bình quân của các năm 2019,
2020 và ước thực hiện năm 2021 lần lượt là 2,79%; 3,23% và 4%; tốc độ tăng
trưởng kinh tế của các năm 2019, 2020 và ước thực hiện năm 2021 lần lượt là
7,02%; 2,91% và 6,5%. Như vậy, chỉ số giá tiêu dùng sau 3 năm 2019 – 2021 ước
tăng 10,35%; cùng với đó, ước tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5,5%/năm
trong giai đoạn 2019- 2021 thì cần thiết xem xét thực hiện điều chỉnh lương hưu,
trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng theo quy định của Luật Bảo hiểm xã
hội.
Từ
những cơ sở pháp lý và thực tiễn nêu trên, thực hiện chương trình công tác của
Chính phủ, Bộ đã xây dụng dự thảo Nghị định điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo
hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng để trình Chính phủ ban hành Nghị định số
108/2021/NĐ-CP.
- Mục đích ban hành
Nghị định được xây dựng và ban hành nhằm cụ thể hóa các quy định tại
Điều 57
Luật Bảo hiểm xã hội; đồng thời, kết hợp xử lý vấn đề lương hưu đối với những
người nghỉ hưu trước năm 1995 theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày
23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách
chính sách bảo hiểm xã hội.
c) Nội dung chủ
yếu:
Nghị
định gồm 2 Chương, 6 Điều với những nội dung cơ bản và được dư luận quan tâm như
sau:
- Về đối tượng điều chỉnh: Nghị định thực hiện điều chỉnh đối với
các đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng
trước ngày 01/01/2022, bao gồm 7 nhóm đối tượng sau:
+ Cán bộ, công chức, công nhân, viên chức và người lao động (kể
cả người có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, người nghỉ hưu từ quỹ
bảo hiểm xã hội nông dân Nghệ An chuyển sang theo Quyết định số 41/2009/QĐ-TTg
ngày 16 tháng 3 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ
về việc chuyển bảo hiểm xã hội nông dân Nghệ An sang bảo hiểm xã hội tự nguyện);
quân nhân, công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu đang hưởng lương hưu
hằng
tháng.
+ Cán bộ
xã, phường, thị trấn quy định tại Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10
năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ,chính sách đối với
cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấnvà những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã, Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2019 của Chính
phủ sửa
đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố,
Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ
về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức
ở xã, phường, thị trấn và Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm
1998 của Chính phủ
sửa
đổi, bổ sung Nghị định 50/CP ngày 26 tháng 7 năm 1995 của Chính phủ về chế độ
sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn
đang hưởng lương hưu, trợ cấp hằng tháng.
+ Người
đang hưởng trợ cấp mất sức lao động hằng tháng theo quy định của pháp luật;
người đang hưởng trợ cấp hằng tháng theo Quyết định số 91/2000/QĐ-TTg ngày 04
tháng 8 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc
trợ cấp cho những người đã hết tuổi lao động tại thời điểm ngừng hưởng trợ cấp
mất sức lao động hằng tháng, Quyết
định số 613/QĐ-TTg ngày 06 tháng 5 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc trợ
cấp hằng tháng cho những ngườicó từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm công tác thực tếđã
hết thời hạn hưởng trợ cấp mất sức lao động; công nhân cao su đang hưởng trợ cấp
hằng tháng
theo Quyết định số 206-CP ngày 30 tháng 5 năm 1979 của Hội đồng Chính phủ về
chính sách đối với công nhân mới giải phóng làm nghề nặng nhọc, có hại sức khỏe
nay già yếu phải thôi việc.
+ Cán bộ
xã, phường, thị trấn đang hưởng trợ cấp hằng tháng theo Quyết định số 130-CP
ngày 20 tháng 6 năm 1975 của Hội đồng Chính phủ
bổ sung chính sách, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã và Quyết định số
111-HĐBT ngày 13 tháng 10 năm 1981 của Hội đồng Bộ trưởng
về việc sửa đổi, bổ sung một số chính sách, chế
độ đối với cán bộ xã, phường.
+ Quân
nhân đang hưởng chế độ trợ cấp hằng tháng theo Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg
ngày 27 tháng 10 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chế độ đối với
quân nhân tham giakháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công táctrong
quân đội đã phục viên, xuất ngũ về địa phương (được sửa đổi, bổ sung bởi
Quyết định số 38/2010/QĐ-TTg ngày 06 tháng 5 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ).
+ Công an
nhân dân đang hưởng trợ cấp hằng tháng theo Quyết định số 53/2010/QĐ-TTg ngày 20
tháng 8 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ đối với cán bộ,
chiến sĩ Công an nhân dântham gia kháng chiến chống Mỹ có dưới 20 năm công tác
trongCông an nhân dân đã thôi việc, xuất ngũ về địa phương.
+ Quân
nhân, công an nhân dân, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân
nhân, công an nhân dân đang hưởng trợ cấp hằng tháng theo Quyết định số
62/2011/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ,
chính sách đối với đối tượng tham giachiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ
quốc tế ở Căm-pu-chi-a,giúp bạn Lào sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã phục viên,
xuất ngũ, thôi việc.
Ngoài ra, với các đối
tượng nghỉ hưu trước ngày 01/01/1995 sau khi thực hiện điều chỉnh với mức 7,4%
mà có mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng dưới 2.500.000
đồng/tháng, thì tiếp tục được điều chỉnh.
- Thời điểm điều chỉnh:
Từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
- Mức điều chỉnh
+ Tăng
thêm 7,4% đối với các đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ
cấp hằng tháng trước ngày 01 tháng 01 năm 2022.
+ Các đối
tượng nghỉ hưu trước ngày 01/01/1995 sau khi thực hiện điều chỉnh mức 7,4% mà có
mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng dưới 2.500.000
đồng/tháng, thì tiếp tục được điều chỉnh: tăng thêm 200.000 đồng/người/tháng đối
với những người có mức lương hưu, trợ cấp từ 2.300.000 đồng/người/tháng trở
xuống và tăng lên bằng 2.500.000 đồng/người/tháng đối với những người có mức
lương hưu, trợ cấp từ 2.300.000 đồng/người/tháng đến dưới 2.500.000
đồng/người/tháng.
5. Nghị định số
110/2021/NĐ-CP ngày 09 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ bãi bỏ một số văn bản quy
phạm pháp luật của Chính phủ
a) Hiệu lực thi
hành:
Nghị định này có hiệu lực từ ngày 15 tháng 12 năm 2021.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
Nghị định được ban hành nhằm thực hiện nhiệm vụ
xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật để chấm dứt hiệu lực các văn bản do Chính phủ ban hành không còn được áp
dụng trên thực tế nhưng chưa có văn bản xác định hết hiệu lực tại Nghị quyết số
23/NQ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2018 phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 năm
2018.
c) Nội dung chủ
yếu:
Nghị định gồm 02 Điều bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật
của Chính phủ, cụ thể: (1)
Quy định việc bãi bỏ toàn bộ 13 nghị định của Chính phủ. Các văn
bản bãi bỏ được sắp xếp theo phạm vi điều chỉnh (trong đó sắp xếp văn bản được
sửa đổi, bổ sung trước văn bản sửa đổi, bổ sung để dễ theo dõi, các văn bản điều
chỉnh về cùng một vấn đề được sắp xếp gần nhau) và theo thứ tự thời gian ban
hành (từ ban hành trước đến ban hành sau);
(2) Điều khoản
thi hành.
6. Nghị định số
112/2021/NĐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng
a) Hiệu lực thi hành:
Nghị định trên có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
Bãi bỏ
các văn bản quy phạm pháp luật: Nghị định số38/2020/NĐ-CPngày 03 tháng 4 năm
2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Thông tư liên tịch
số17/2007/TTLT-BLĐTBXH-NHNNVNngày 04 tháng 9 năm 2007 của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định việc quản lý và sử dụng
tiền ký quỹ của doanh nghiệp và tiền ký quỹ của người lao động đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
Nghị định được ban
hành nhằm quy
định chi tiết các nội dung được giao trong Luật số 69/2020/QH14 ngày 13
tháng 11
năm 2020 về
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
c) Nội dung chủ
yếu: Nghị
định số 112/2021/NĐ-CP ngày 10/12/2021 của Chính phủ bao gồm 08 chương, 47 điều.
-
Phạm vi điều chỉnh: Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng về:Điều
kiện, hồ sơ cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng theokhoản 2 Điều 10; khoản 4 Điều 12; khoản 4
Điều 16; khoản 6 Điều 17; khoản 2 Điều 74;
Điều kiện hoạt
động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại một số thị trường,
ngành, nghề, công việc theokhoản 2 Điều 8;
Mức ký quỹ,
quản lý và sử dụng tiền ký quỹ của doanh nghiệp theokhoản 3 Điều 24; khoản 2
Điều 36;
Mức trần tiền ký quỹ, quản
lý, sử dụng và hoàn trả tiền ký quỹ của người lao động theokhoản 5 Điều 25;
điểm c khoản 1 Điều 43;
Điều kiện, thủ tục đăng ký trực tuyến hợp đồng lao động giao kết sau khi xuất
cảnh theokhoản 2 Điều 54;
Các biện pháp thi hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng.
-
Đối tượng áp dụng: Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng ký với đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp Việt Nam hoạt động dịch vụ đưa người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
Công dân Việt
Nam giao kết hợp đồng lao động hợp pháp sau khi xuất cảnh;
Doanh nghiệp Việt Nam hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng (sau đây viết tắt là doanh nghiệp dịch vụ);
Doanh nghiệp Việt Nam đưa người lao động Việt Nam đi đào tạo, nâng cao trình độ,
kỹ năng nghề ở nước ngoài;
Đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
được giao nhiệm vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng (sau đây viết tắt là đơn vị sự nghiệp);
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến lĩnh vực người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
-
Các nội dung chủ yếu:
+
Điều kiện, hồ sơ cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
+
Điều kiện hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại một số
thị trường, ngành, nghề, công việc;
+
Mức ký quỹ, việc quản lý và sử dụng tiền ký quỹ của doanh nghiệp;
+
Mức trần tiền ký quỹ, quản lý, sử dụng và hoàn trả tiền ký quỹ của người lao
động;
+
Điều kiện, thủ tục đăng ký trực tuyến hợp đồng lao động giao kết sau khi xuất
cảnh.
+
Mức trần tiền ký quỹ, quản lý, sử dụng và hoàn trả tiền ký quỹ của người lao
động;
+
Điều kiện, thủ tục đăng ký trực tuyến hợp đồng lao động giao kết sau khi xuất
cảnh.
Ban hành kèm theo Nghị
định 02 Phụ lục và các Biểu mẫuquy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
7. Nghị định số
113/2021/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 120/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2017 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam
a) Hiệu lực thi
hành:
Nghị định này có
hiệu lực thi hành từ ngày ký ban hành (ngày 14 tháng 12 năm 2021).
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
- Sự cần
thiết ban hành
Triển khai Luật
Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
120/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2017 quy định chi tiết một số điều của Luật
Thi hành tạm giữ, tạm giam tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chế độ ăn, mặc,
chăm sóc y tế đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam; kinh phí bảo đảm thực
hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam; kinh phí bảo đảm chăm
sóc, nuôi dưỡng đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam
giữ; việc thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam
là người nước ngoài.
Qua hơn 03 năm
thực hiện Nghị định số 120/2017/NĐ-CP cho thấy quy định về định mức ăn của người
bị tạm giữ, người bị tạm giam đặc biệt là đối tượng phụ nữ có thai và nuôi con
dưới 36 tháng tuổi còn thấp, một số quy định về định mức ăn chưa phù hợp với
thực tế, chưa có quy định về tư trang cho trẻ em ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ,
chưa có quy định về chế độ đối với trẻ em từ đủ 36 tháng tuổi trở lên ở cùng mẹ
trong cơ sở giam giữ trong thời gian chờ làm thủ tục đưa vào cơ sở trợ giúp xã
hội hoặc chờ gửi về thân nhân nuôi dưỡng, các cơ sở giam giữ gặp khó khăn trong
việc tính toán, bố trí khẩu phần ăn hằng ngày cho người bị tạm giữ, người bị tạm
giam…
Bên cạnh đó,
tại thời điểm xây dựng Nghị định số 120/2017/NĐ-CP, các chế độ đối với người bị
tạm giữ, người bị tạm giam được xây dựng tương ứng với chế độ đối với phạm nhân
theo Nghị định số 117/2011/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ quy
định về tổ chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế
đối với phạm nhân được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số
90/2015/NĐ-CP ngày 13 tháng 10 năm 2015. Tuy nhiên, triển khai Luật Thi hành án
hình sự năm 2019, ngày 09 tháng 11 năm 2020, Chính phủ ký ban hành Nghị định số
133/2020/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi hành án hình
sự có hiệu lực thi hành từ ngày 25 tháng 12 năm 2020, thay thế Nghị định số
117/2011/NĐ-CP, trong đó điều chỉnh tăng một số chế độ đối với phạm nhân về ăn,
mặc, chăm sóc y tế và chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở
cùng mẹ trong cơ sở giam giữ so với quy định trước đây. Đối chiếu với các quy
định tại Nghị định số 120/2017/NĐ-CP thì chế độ đối với người bị tạm giữ, người
bị tạm giam và chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ
trong cơ sở giam giữ hiện đang thấp hơn so với phạm nhân và trẻ em ở cùng mẹ
trong các cơ sở giam giữ.
Thực tế hiện
nay các trại tạm giam, nhà tạm giữ đang quản lý, giam giữ 03 loại đối tượng gồm
người bị tạm giữ, người bị tạm giam và phạm nhân. Việc điều chỉnh một số chế độ
đối với phạm nhân theo Nghị định số 133/2020/NĐ-CP đã tạo ra sự chênh lệch về
chế độ giữa người bị tạm giữ, người bị tạm giam và phạm nhân, gây khó khăn trong
tổ chức thực hiện ở các cơ sở giam giữ, dẫn đến thắc mắc về chế độ giữa các đối
tượng. Mặt khác, các tiêu chuẩn, định lượng ăn, mặc, sinh hoạt, chăm sóc y tế
đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo Nghị định số 120/2017/NĐ-CP
được xây dựng và áp dụng ở thời điểm mặt bằng chung về điều kiện kinh tế, xã hội
ở mức thấp hơn so với hiện tại. Vì vậy, việc điều chỉnh các chế độ áp dụng đối
với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là cần thiết và cấp bách nhằm bảo đảm
chế độ ăn, mặc, chăm sóc y tế cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam, đồng thời
quán triệt thực hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng, đề cao quyền con người của
Đảng và Nhà nước ta theo Hiến pháp đối với các loại đối tượng hình sự trong tình
hình hiện nay.
Xuất phát từ
những vấn đề nêu trên, việc xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 120/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2017 quy định chi tiết một số
điều của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam theo trình tự, thủ tục rút gọn là cần
thiết để giải quyết vấn đề phát sinh trong thực tiễn.
- Mục đích
ban hành
Việc nghiên
cứu, xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
120/2017/NĐ-CP nhằm bảo đảm tốt hơn về chế độ ăn, mặc, chăm sóc y tế cho người
bị tạm giữ, người bị tạm giam đặc biệt là đối tượng phụ nữ có thai và nuôi con
nhỏ dưới 36 tháng tuổi, trẻ em ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ, góp phần tạo cơ
sở pháp lý cụ thể, đầy đủ cho các cơ quan có thẩm quyền trong thực hiện chế độ
đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
c) Nội dung chủ yếu:
- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 4
Nghị định đã điều chỉnh định mức ăn trong một tháng của người bị tạm giam tăng
từ 0,7 kg thịt lên 01 kg thịt (tăng 0,3 kg thịt) và quy định rõ là thịt lợn;
tăng từ 0,8 kg cá lên 01 kg cá (tăng 0,2 kg cá); bổ sung 0,2 lít dầu ăn và gia
vị khác tương đương 0,5 kg gạo tẻ; giảm 0,5 kg muối.
Việc điều chỉnh chế độ
đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam tạo sự bình đẳng, thống nhất trong
chính sách đối xử giữa người bị tạm giữ, người bị tạm giam và phạm nhân, tạo
thuận lợi cho công tác quản lý của các trại tạm giam, nhà tạm giữ, phù hợp với
nhu cầu thực tế và tình hình phát triển kinh tế xã hội hiện nay.
- Sửa đổi khoản 3 Điều
4
Trên cơ sở quy định của
Nghị định số 120/2017/NĐ-CP, Nghị định số 133/2020/NĐ-CP, các văn bản quy phạm
pháp luật về bảo đảm quyền con người, bình đẳng giới, bảo vệ và chăm sóc trẻ em,
Nghị định đã kế thừa các quy định trên và sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau:
tăng định mức ăn cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai hoặc
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi bằng 02 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường và khi
sinh con được thanh toán viện phí và được cấp 01 lần các đồ dùng cần thiết cho
việc chăm sóc trẻ sơ sinh tương đương 01 tháng chế độ ăn của trẻ em dưới 36
tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ.
Các sửa đổi, bổ sung đối
với chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai và nuôi con
dưới 36 tháng tuổi là cụ thể hóa các quy định về bảo vệ quyền con người, nguyên
tắc bình đẳng giới, bảo đảm quyền trẻ em đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm
2013, Luật Bình đẳng giới, Luật Trẻ em và các văn bản có liên quan; bảo đảm tính
đồng bộ, thống nhất trong quy định của Nghị định với các quy định của pháp luật
hiện hành về bình đằng giới, quyền trẻ em; bảo đảm sự tương thích với các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên như Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị (ICCPR), Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng
phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (CAT), Công ước xóa bỏ mọi hình
thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Công ước của Liên hợp quốc về quyền
trẻ em (UNICEF)…, đồng thời khi thực thi trong thực tiễn sẽ có tác dụng tích cực
trong công tác giáo dục đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ.
- Sửa
đổi, bổ sung khoản 1 Điều 6
Bổ sung quy định người bị
tạm giữ, người bị tạm giam tại các cơ sở giam giữ thuộc 05 tỉnh Tây Nguyên được
mượn 01 áo ấm mùa đông và 01 chăn bông loại không quá 02 kg để phù hợp với thời
tiết hiện nay.
Bổ sung quy định người bị
tạm giữ được cấp 0,1 kg xà phòng, 20ml dầu gội đầu; người bị tạm giam được cấp
01 bàn chải đánh răng, 01 khăn rửa mặt dùng trong 03 tháng, mỗi tháng được cấp
70ml dầu gội đầu để phục vụ nhu cầu sinh hoạt.
- Sửa đổi
khoản 1 Điều 7
Tiền thuốc chữa bệnh
thông thường cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam tăng thêm 01 kg gạo
tẻ/người/tháng thành 03 kg gạo tẻ /người/tháng.
- Sửa đổi, bổ sung
Điều 8
Sửa đổi, bổ sung chế độ
chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ,
theo đó chế độ ăn của trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ
được hưởng như mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng đối với trẻ em dưới 04 tuổi tại
cơ sở trợ giúp xã hội theo quy định của pháp luật hiện hành; ngày lễ, tết theo
quy định của pháp luật trẻ em được hưởng chế độ ăn bằng 05 lần ngày thường, ngày
Quốc tế Thiếu nhi (ngày 01 tháng 6 dương lịch), Tết Trung thu (ngày 15 tháng 8
âm lịch) được hưởng chế độ ăn bằng 02 lần ngày thường. Mỗi tháng được cấp sữa và
đồ dùng sinh hoạt cần thiết trị giá tương đương 20 kg gạo tẻ/trẻ em. Bổ sung quy
định trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ
trong cơ sở giam giữ được cấp một số đồ dùng cá nhân.
Bổ sung quy định các chế
độ đối với trẻ em từ đủ 36 tháng tuổi trở lên ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ
trong thời gian chờ làm thủ tục đưa vào cơ sở trợ giúp xã hội hoặc chờ gửi về
thân nhân nuôi dưỡng được thực hiện như trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ
trong cơ sở giam giữ. Đây là quy định mới trong Nghị định, tuy nhiên đây là quy
định cần thiết để bảo đảm quyền lợi cho trẻ em từ đủ 36 lên ở cùng mẹ trong cơ
sở giam giữ trong thời gian chờ làm thủ tục đưa vào cơ sở trợ giúp xã hội hoặc
chờ gửi về thân nhân nuôi dưỡng, đồng thời bảo đảm sự tương đồng với các quy
định của trẻ em ở với mẹ trong cơ sở giam giữ
tại Nghị định số 133/2020/NĐ-CP.
* Việc điều chỉnh chế độ
ăn của người bị tạm giữ, người bị tạm giam tương đương với chế độ của phạm nhân
thì ngân sách Nhà nước tăng cho 01 người tạm giữ, người bị tạm giam trong 01
tháng là khoảng 48.000 đồng đến 50.000 đồng. Với lưu lượng giam giữ bình quân
khoảng 54.000 người tại một thời điểm thì ngân sách Nhà nước chi cho việc thực
hiện chế độ ăn cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam tăng khoảng 32 tỷ đồng
trong một năm. Đối với nội dung sửa đổi, bổ sung liên quan đến chế độ của người
bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi,
hiện nay số lượng người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai và nuôi
con dưới 36 tháng tuổi trung bình khoảng 35 trường hợp/năm, do đó, chi phí phát
sinh liên quan đến các đối tượng này khoảng hơn 1 tỷ đồng một năm (trong đó
khoảng 240 triệu/năm liên quan đến chế độ ăn của phụ nữ có thai và nuôi con dưới
36 tháng tuổi; khoảng 840 triệu/năm liên quan đến chế độ chăm sóc nuôi dưỡng trẻ
em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ). Các nội dung sửa đổi còn
lại liên quan đến việc cấp phát tư trang và tiền thuốc chữa bệnh phát sinh chi
phí không đáng kể. Như vậy, việc sửa đổi, bổ sung các nội dung liên quan đến chế
độ ăn, mặc, chăm sóc y tế đối với người tạm giữ, người bị tạm giam, chế độ chăm
sóc, nuôi dưỡng trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ phát
sinh cho ngân sách Nhà nước khoảng 33 - 35 tỷ đồng/năm, tăng khoảng 01% so với
chỉ tiêu ngân sách Nhà nước giao, ảnh hưởng rất nhỏ đến ngân sách Nhà nước, phù
hợp với sự phát triển chung của tình hình kinh tế, xã hội. Nguồn lực và điều
kiện bảo đảm thi hành Nghị định được thực hiện theo các quy định của pháp luật
hiện hành.
Việc tăng và bổ
sung một số chế độ tuy không lớn nhưng mang lại nhiều hiệu quả tích cực, giúp
người bị tạm giữ, người bị tạm giam
tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, thành khẩn khai báo,
phục vụ tốt công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, giúp cán bộ,
chiến sĩ thuận lợi trong việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với người bị
tạm giữ, người bị tạm giam, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao,
góp phần bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội phục vụ công
cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
8. Nghị định số
115/2021/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 08/2016/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm 2016 của Chính phủ quy
định số lượng Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và quy trình, thủ tục bầu, từ chức,
miễn nhiệm, bãi nhiệm, điều động, cách chức thành viên Ủy ban nhân dân
a) Hiệu lực thi
hành:Nghị định này
có hiệu lực từ ngày ký ban hành (ngày 16 tháng 12 năm 2021).
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:Căn
cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, ngày 25/01/2016 Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 08/2016/NĐ-CP. Trong nhiệm kỳ 2016-2021, các quy định tại
Nghị định số 08/2016/NĐ-CP đã được thực hiện nghiêm túc; các nhân sự được bầu
(lần đầu, tái cử hoặc bổ sung) giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên
UBND bảo đảm số lượng, tiêu chuẩn chức danh, quy trình, thủ tục theo quy định.
Tuy nhiên, sau hơn 5 năm thực hiện, một số quy định của Nghị định số
08/2016/NĐ-CP đã phát sinh những vướng mắc, bất cập và chưa đồng bộ, liên thông
với quy định của Đảng về phân cấp quản lý cán bộ cần được sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp, cụ thể như sau:
- Về việc báo cáo (xin ý
kiến) trước khi bầu Phó Chủ tịch UBND các cấp
Tại điểm b và điểm c
khoản 1 Điều 11 Nghị định số 08/2016/NĐ-CP quy định việc báo cáo xin ý kiến về
nhân sự trước khi HĐND bầu Phó Chủ tịch UBND cùng cấp (đối với cấp tỉnh trừ
thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ; đối
với cấp huyện, cấp xã thì giao UBND cấp tỉnh hướng dẫn cụ thể trình tự, thủ tục
báo cáo). Quy định này nhằm tránh những trường hợp bầu Phó Chủ tịch UBND các cấp
sai quy định, nhưng chưa phù hợp với Quy định số 105-QĐ/TW ngày 19/12/2017 của
Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và
chưa đồng bộ với quy trình bầu chức danh Phó Chủ tịch HĐND các cấp (không phải
xin ý kiến trước khi HĐND các cấp bầu trừ thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh) dẫn đến quy trình bầu nhân sự Phó Chủ tịch UBND và Phó Chủ tịch HĐND ở địa
phương có sự khác nhau, kéo dài thời gian trong thực hiện quy trình, thủ tục bầu
và phê chuẩn chức vụ Phó Chủ tịch UBND. Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung
quy định này để bảo đảm liên thông, thống nhất giữa quy định của Đảng và của
pháp luật.
- Về hồ sơ và thời hạn
phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND các cấp
+ Về hồ sơ nhân sự: Tại
Mục II, Phụ lục 4 ban hành kèm theo Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ
Chính trị về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng đã quy định danh mục hồ sơ nhân sự cấp ủy cấp tỉnh nhiệm kỳ
2020-2025 (gồm 11 loại tài liệu); đồng thời, tại Mẫu số 09/UBTVQH ban hành kèm
theo Văn bản số 883/HD-UBTVQH14 ngày 02/6/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
hướng dẫn một số nội dung về việc tổ chức kỳ họp thứ nhất của HĐND các cấp nhiệm
kỳ 2021-2026 đã quy định hồ sơ nhân sự đề nghị phê chuẩn các chức danh do HĐND
bầu (gồm 12 loại tài liệu). Vì vậy, cần thiết phải rà soát để bổ sung quy định
về thành phần hồ sơ phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND các cấp
(quy định tại khoản 2, Điều 12 Nghị định số 08/2016/NĐ-CP) cho phù hợp với quy
định của Đảng và của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu trên.
+ Về thời hạn thẩm định
và phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND: Tại điểm h, khoản 5 Văn
bản số 883/HD-UBTVQH14 nêu trên có quy định thời hạn phê chuẩn kết quả bầu là 10
ngày làm việc (không quy định riêng về thời hạn thẩm định và thời hạn phê chuẩn)
và nếu hồ sơ sai sót hoặc chưa đầy đủ thì trong thời hạn 03 ngày làm việc phải
yêu cầu bổ sung, hoàn thiện. Sau khi rà soát lại quy định này tại Nghị định số
08/2016/NĐ-CP (khoản 3 và khoản 5 Điều 12) thì tổng thời hạn thẩm định và phê
chuẩn kết quả bầu cử cũng là 10 ngày (03 ngày thẩm định, 07 ngày phê chuẩn) vẫn
phù hợp với quy định tại Văn bản số 883/HD-UBTVQH14, nhưng thời gian yêu cầu bổ
sung, hoàn thiện hồ sơ (trong 02 ngày làm việc) là chưa phù hợp; đồng thời,
trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 08/2016/NĐ-CP thì việc quy
định chỉ có 03 ngày để thẩm định hồ sơ nhân sự là quá gấp, đặc biệt là việc phải
bổ sung nhiều loại tài liệu trong hồ sơ nhân sự nêu trên. Vì vậy, cần thiết phải
sửa đổi quy định về thời hạn thẩm định và phê chuẩn kết quả bầu cử cho phù hợp
với thực tiễn của việc thẩm định và hướng dẫn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu
trên.
- Về việc bổ nhiệm vào
chức danh người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện đối
với những người sau khi được HĐND cùng cấp bầu chức danh Ủy viên UBND
Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015 quy định Ủy viên UBND cấp tỉnh, cấp huyện là người đứng đầu
cơ quan chuyên môn thuộc UBND cùng cấp[1],
nhưng Nghị định số 08/2016/NĐ-CP chưa có quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
việc này. Đến nay, căn cứ ý kiến đề nghị của một số địa phương và của Ban Công
tác đại biểu thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ Nội vụ đã có hướng dẫn về vấn
đề này tại Văn bản số 3308/BNV-CQĐP ngày 08/7/2021 (kèm theo). Tuy nhiên, cần
phải bổ sung vấn đề này trong nội dung sửa Nghị định số 08/2016/NĐ-CP cho phù
hợp, vì ngoài việc phê chuẩn, bổ nhiệm còn liên quan đến việc miễn nhiệm chức
danh Ủy viên UBND đối với các trường hợp này.
Từ những vướng mắc, bất
cập nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 08/2016/NĐ-CP
là cần thiết.
c) Nội dung chủ
yếu:Dự thảo Nghị
định gồm 03 Điều (sửa đổi, bổ sung 03 Điều của Nghị định số 08/2016/NĐ-CP), cụ
thể như sau:
- Điều 1: Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 08/2016/NĐ-CP của Chính phủ, gồm 03 khoản sau:
+ Khoản 1. Sửa đổi khoản
1 Điều 11 theo hướng bỏ việc báo cáo xin ý kiến trước khi HĐND bầu Phó Chủ tịch
UBND cùng cấp, trừ thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (bỏ điểm b và điểm
c khoản 1); đồng thời, bổ sung 01 khoản (khoản 4 mới) quy định về việc bổ nhiệm,
miễn nhiệm đối với chức danh Ủy viên UBND cấp tỉnh, cấp huyện là người đứng đầu
cơ quan chuyên môn thuộc UBND cùng cấp.
+ Khoản 2. Sửa đổi, bổ
sung khoản 2, khoản 3 và khoản 5 Điều 12 về hồ sơ, thời hạn thẩm định và thời
hạn phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND.
+ Khoản 3. Sửa đổi, bổ
sung khoản 3 và khoản 5 Điều 14 để thống nhất nội dung về thời hạn thẩm định,
phê chuẩn kết quả bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND.
- Điều 2 quy định về hiệu
lực thi hành.
- Điều 3 quy định về
trách nhiệm thi hành.
9. Nghị định số
117/2021/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ quy
định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ
a) Hiệu lực thi
hành:
Nghị định có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 15 tháng 02 năm 2022.
Điều khoản chuyển
tiếp: Ủy Ban nhân dân cấp tỉnhrà soát,ban hành quyết định phê duyệt cácđiểm
đấu nối vào quốc lộ thay thế quy hoạch điểm đấu nối được tích hợp vào Quy hoạch
tỉnh theo Nghị quyết số110/NQ-CPngày
02 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ và các điểm đấu nối đã được Bộ Giao thông vận
tải thỏa thuận trước ngày Nghị định này có hiệu lực để tiếp tụctriển khaithực
hiện đấu nối vào quốc lộ.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
Để bảo đảm thực thi,
triển khai đồng bộ Luật Quy hoạch ngày 24/11/2017 và Luật Giao thông đường bộ
ngày 13/11/2008, cần chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung Điều 29 Nghị định số
11/2010/NĐ-CP nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về
quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ và giải quyết nhu cầu kết
nối giao thông với quốc lộ đối với các trường hợp chưa có điểm đấu nối được tích
hợp trong quy hoạch tỉnh.
c) Nội dung chủ
yếu: Nghị định
bao gồm 04 Điều, cụ thể như sau:
Điều 1.Sửa đổi, bổ sung
một số khoản, điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2010 của
Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ
Điều 2. Bãi bỏ một số
khoản, điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP
Điều 3. Điều khoản chuyển
tiếp
Điều 4. Điều khoản thi
hành
Nội dung cơ bản của
Nghị định:
- Điều 1. Sửa đổi, bổ
sung một số khoản, điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2010
của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ
gồm:
+ Khoản 1: Sửa đổi, bổ
sung khoản 3 Điều 26 để phù hợp với quy định của Luật Quy hoạch.
+ Khoản 2: Sửa đổi, bổ
sung Điều 29 quy định về việc đấu nối vào quốc lộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
quyết định điểm đấu nối vào quốc lộ, tuân thủ nguyên tắc, yêu cầu đầu nối theo
quy định của Bộ trưởng Bộ GTVT.
+ Khoản 3: Bổ sung quy
định về trách nhiệm của Bộ GTVT: Kiểm tra, xử lý hoặc kiến nghị xử lý theo thẩm
quyền việc thực hiện quy định về đấu nối vào quốc lộ; yêu cầu thu hồi hoặc tạm
dừng các quyết định đấu nối không đúng quy định; yêu cầu đóng điểm đấu nối, khắc
phục, hoàn trả lại hiện trạng ban đầu của tuyến quốc lộ.
+ Khoản 4: Bổ sung quy
định về trách nhiệm của UBND cấp tỉnh: Tổ chức thực hiện việc đấu nối vào quốc
lộ tuân thủ quy định; thu hồi, xử lý các quyết định đấu nối không đúng quy định
và chịu trách nhiệm về các thiệt hại liên quan đến việc quyết định đấu nối không
đúng quy định.
- Điều 2. Bãi bỏ một số
khoản, điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP: Bãi bỏ Điều 5, Điều 6, Điều 7, khoản
4 Điều 28, Điều 37 của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP.
- Điều 3. Điều khoản
chuyển tiếp
- Điều 4. Điều khoản thi
hành
10. Nghị định số
118/2021/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính
a) Hiệu lực thi
hành: Nghị định này
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
Các quy định tại điểm a
khoản 1, các khoản 2 và 4 Điều 15 Nghị định này có hiệu lực thi hành đối với các
quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính được ban hành kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2021.
Nghị định này thay thế
Nghị định số81/2013/NĐ-CPngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị
định số97/2017/NĐ-CPngày 18 tháng 8 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số81/2013/NĐ-CPngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành
chính.
b) Sự cần thiết, mục
đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
+ Cơ sở pháp lý
Luật Xử lý vi phạm hành
chính năm 2012 (sau đây gọi là Luật XLVPHC) là đạo luật có nội dung lớn, phức
tạp, liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của rất nhiều cơ quan nhà nước từ trung
ương đến địa phương, cótác động đến hầu hết các chủ thể trong xã hội. Đây là cơ
sở pháp lý quan trọng góp phần đảm bảo kỷ cương hành chính; bảo vệ an ninh, trật
tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
Tại Kỳ họp thứ 10, ngày
13/11/2020, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật XLVPHC, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2022 (sau đây gọi là Luật số
67/2020/QH14). Luật số 67/2020/QH14 giao Chính phủ quy định chi tiết một số
điều: Điều 4; khoản 7 Điều 17; khoản 3 Điều 18; khoản 4 Điều 23; khoản 3 Điều
25; khoản 4 Điều 54; khoản 9 Điều 58; khoản 5 Điều 61; Điều 75; khoản 4 Điều
78.
Tuy nhiên, Luật XLVPHC
hiện hành và Luật số 67/2020/QH14 còn có những vấn đề cần thiết phải hướng dẫn,
quy định biện pháp cụ thể để tổ chức thi hành theo khoản 2 Điều 19 Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), bảo đảm các quy
định của Luật được áp dụng chính xác, bảo đảm hiệu quả quản lý thống nhất công
tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong phạm vi cả nước của
Chính phủ như: Điều 12, Điều 18, Điều 60, Điều 67, khoản 3 Điều 71, Điều 72,
Điều 125, Điều 126, Điều 128 Luật XLVPHC…
Theo Quyết định số
126/QĐ-TTg ngày 26/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai
thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC, Bộ Tư pháp được giao
chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan có liên quan nghiên cứu, xây dựng, trình
Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật XLVPHC (thay thế Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật XLVPHC và Nghị định số
97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 81/2013/NĐ-CP). Đây là văn bản quy định các vấn đề chung, liên quan đến
thực tiễn xử lý vi phạm hành chính của nhiều bộ, ngành, địa phương.
Những vấn đề khác Luật
XLVPHC sửa đổi, bổ sung năm 2020 giao Chính phủ quy định chi tiết (ngoài các nội
dung đã được quy định tại dự thảo Nghị định này) sẽ được quy định tại các Nghị
định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước
(quy định chi tiết điểm a khoản 1 Điều 4 Luật XLVPHC); Nghị định quy định về
cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (quy định chi tiết Điều
86 Luật XLVPHC); Nghị định quy định chế độ áp dụng, thi hành biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (quy định chi tiết điểm b khoản 1
Điều 4 và Điều 110 Luật XLVPHC); Nghị định quy định chế độ áp dụng, thi hành
biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và đưa vào cơ sở giáo dục
bắt buộc (quy định chi tiết điểm b khoản 1 Điều 4 và Điều 110 Luật XLVPHC); Nghị
định quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị
tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính (quy định chi tiết Điều 125 Luật
XLVPHC); Nghị định quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ
người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài
vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất (quy định chi
tiết khoản 2 Điều 27, Điều 122, Điều 124 và Điều 130 Luật XLVPHC).
+ Cơ sở thực tiễn
Nghị định số
81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) đã tạo cơ
sở pháp lý quan trọng để Chính phủ, Bộ Tư pháp, các bộ, ngành và các địa phương
đẩy mạnh việc triển khai đồng bộ các giải pháp, sau 08 năm thực hiện đã thu được
một số kết quả quan trọng trong việc thi hành Luật XLVPHC trên phạm vi cả nước;
bên cạnh đó, việc triển khai thi hành Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, đặc
biệt có nhiều vấn đề phát sinh cần quy định biện pháp thi hành để triển khai có
hiệu quả Luật XLVPHC (xin xem Báo cáo tổng kết kèm theo Tờ trình này).
Một số nội dung được quy
định tại Luật XLVPHC hiện hành và nội dung mới được quy định tại Luật số
67/2020/QH14 cần được hướng dẫn chi tiết hơn để bảo đảm thống nhất, thuận lợi
trong quá trình thi hành Luật trong thực tiễn, cụ thể là: Việc xác định thời
điểm phát hiện hành vi vi phạm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính; thủ
tục lập biên bản thu giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề và biên bản trả lại giấy
phép, chứng chỉ hành nghề khi hết thời hạn tước; xác định thẩm quyền tịch thu
tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong trường hợp quy định tại khoản 4
Điều 126 Luật XLVPHC; việc xác định thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp quy định
tại Điều 65 Điều 126 Luật XLVPHC; xác định người có thẩm quyền tiêu hủy tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính là hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khoẻ
con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hoá phẩm độc hại theo quy định
tại khoản 5 Điều 126 Luật XLVPHC...
Ngoài ra, một số quy định
với tính chất là biện pháp thi hành tại Nghị định số 81/2013/NĐ-CP và Nghị định
số 97/2017/NĐ-CP đã được triển khai trên thực tế hiệu quả, ổn định từ tháng
7/2013 đến nay, cần thiết phải được nghiên cứu, kế thừa nhằm đáp ứng yêu cầu
thực tiễn: Về trách nhiệm của người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính khi
thi hành công vụ (Điều 18 Luật XLVPHC); xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính trong trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là hàng cấm tàng
trữ, cấm lưu hành; quy định về công bố công khai trên các phương tiện thông tin
đại chúng về việc xử phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính (Điều 72
Luật XLVPHC); xử lý tang vật, phương tiện bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi
phạm hành chính thuộc trường hợp bị tịch thu (khoản 1 Điều 126 Luật XLVPHC)...
Xuất phát từ những lý do
nêu trên, việc nghiên cứu, xây dựng Nghị định quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật XLVPHC là cần thiết.
- Mục đích ban hành:
+ Việc xây dựng
Nghị định nhằm quy định chi tiết một số điều, khoản mà Luật giao Chính phủ quy
định chi tiết, đồng thời, hướng dẫn, quy định cụ thể, đầy đủ các biện pháp để tổ
chức thi hành Luật, bảo đảm Luật XLVPHC được tổ chức thi hành hiệu quả trên thực
tế.
+ Kịp thời giải
quyết những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thi hành các quy định
của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, tạo cơ sở pháp lý chung, áp dụng
thống nhất trong công tác xử phạt vi phạm hành chính trên toàn quốc, đồng thời,
nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác quản lý trong thi hành pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính.
c) Nội dung chủ
yếu:Nghị định gồm 05
Chương và 43 Điều quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý
vi phạm hành chính, cụ thể: (1) Những quy định chung;
(2) Quy định về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm
hành chính; (3) Áp dụng quy định về xử phạt vi phạm
hành chính; (4) Nội dung quản lý nhà nước trong thi hành
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; (5) Trách nhiệm
thực hiện quản lý nhà nước trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;
(6) Điều khoản thi hành.
Nghị định áp dụng đối
với: (1) Cơ quan có thẩm quyền quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính; (2) Cơ quan, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính; (3)
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành pháp luật vềxử lý vi
phạm hành chính.
Ban hành kèm theo Nghị
định này 02 Phụ lục các Biểu mẫu quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Xử lý vi phạm hành chính.
11. Nghị định số
119/2021/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định về trình tự, thủ
tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ qua biên giới
a) Hiệu lực thi
hành:
Nghị định có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 15 tháng 02 năm 2022.
Giấy phép vận tải đường
bộ quốc tế, giấy phép liên vận đã được cấp trước ngày Nghị định này có hiệu lực
thi hành tiếp tục được thực hiện cho đến khi hết thời hạn hiệu lực của giấy
phép.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
- Sự cần thiết
ban hành Nghị định:
Cơ sở pháp lý: Từ năm 1994 đến nay, Việt Nam đã ký kết và thực hiện các điều ước
quốc tế (ĐƯQT) song phương, đa phương về vận tải đường bộ qua biên giới với các
nước láng giềng và trong khu vực như Lào, Campuchia, Trung Quốc, các nước GMS và
ASEAN. Để triển khai thực hiện các hiệp định và nghị định thư về vận tải đường
bộ song phương với Lào, Campuchia, Trung Quốc cũng như hiệp định, thỏa thuận hợp
tác đa phương giữa ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia và Việt Nam với các nước
GMS, trong thời gian qua, Bộ GTVT đã ban hành và bổ sung, sửa đổi các Thông tư
hướng dẫn thực hiện các ĐƯQT này. Tuy nhiên, đến nay theo quy định tại Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2020, việc
quy định các thủ tục hành chính tại các Thông tư do Bộ GTVT ban hành đã không
còn phù hợp.
Bên cạnh đó, trong khuôn
khổ hợp tác đường bộ ASEAN, Việt Nam đã tham gia ký kết các Hiệp định khung về
vận tải đường bộ qua biên giới giữa các nước ASEAN và theo lộ trình, các nước
ASEAN sẽ thúc đẩy việc thực hiện các hiệp định này trong giai đoạn 2021 - 2025.
Tại các Hiệp định khung này, các nước ASEAN cam kết hài hòa hóa các quy định về
cấp giấy phép vận tải đường bộ nhằm tạo thuận lợi cho vận tải người và hàng hóa
qua biên giới. Do vậy, Việt Nam cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật để hướng
dẫn cụ thể việc thực hiện các hiệp định về vận tải đường bộ qua biên giới trong
khuôn khổ hợp tác ASEAN.
Cơ sở thực tiễn: Trong
thời gian qua, các Thông tư của Bộ GTVT quy định trình tự, thủ tục cấp, cấp lại
và thu hồi giấy phép vận tải đường bộ qua biên giới theo từng điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên đã tạo thuận lợi cho hoạt động của các đơn vị kinh
doanh vận tải. Tuy nhiên, do các điều ước quốc tế được ký kết ở các thời điểm và
với các nước khác nhau, trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận
tải đường bộ quốc tế giữa Việt Nam với các nước hiện đang được quy định ở nhiều
Thông tư. Do vậy, cần thiết phải xây dựng một Nghị định nhằm tập hợp quy trình
thủ tục cấp phép để tăng tính đồng bộ và hệ thống của quy định pháp luật về vấn
đề này nhằm tạo thuận lợi cho việc triển khai thực hiện của các cơ quan chức
năng và các đơn vị kinh doanh vận tải.
Trong khuôn khổ hợp tác
ASEAN, vừa qua ASEAN đã thống nhất nội dung các Hướng dẫn triển khai các Hiệp
định khung tạo thuận lợi vận tải hàng hóa và hành khách qua biên giới ASEAN.
Trong số 06 nước đã tham gia triển khai Hệ thống quá cảnh hải quan ASEAN, đã có
03 nước Campuchia, Lào và Thái Lan hoàn thiện thủ tục trong nước và sẵn sàng cấp
giấy phép vận tải đường bộ qua biên giới; Malaysia và Singapore sẽ hoàn thiện
thủ tục trong năm 2021. Về vận tải hành khách qua biên giới bằng phương tiện
đường bộ, đến nay đã có 03 nước thành viên ASEAN gồm Myanmar, Philippines và
Thái Lan hoàn thành thủ tục phê duyệt Hiệp định khung ASEAN về tạo thuận lợi vận
tải hành khách bằng phương tiện đường bộ. Do vậy, Việt Nam cần ban hành quy định
hướng dẫn thực hiện trình tự, thủ tục cấp giấy phép vận tải qua biên giới ASEAN
để phối hợp với các nước thành viên ASEAN khác triển khai các ĐƯQT này.
Đồng thời, nhằm đáp ứng
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước trong bối cảnh cách mạng công
nghiệp 4.0, các quy trình, thủ tục cấp giấy phép vận tải đường bộ quốc tế cần
tiếp tục được đơn giản hóa, ứng dụng công nghệ và hướng tới việc phân cấp, phân
quyền mạnh mẽ hơn nữa.
Với những cơ sở nêu trên,
việc xây dựng và ban hành Nghị định quy định về trình tự, thủ tục cấp, cấp lại,
thu hồi giấy phép vận tải đường bộ qua biên giới là cần thiết.
- Mục đích ban hành
Nghị định:
+ Việc ban hành Nghị định
nhằm triển khai có hiệu quả các điều ước quốc tế về vận tải đường bộ qua biên
giới mà Việt Nam đã tham gia ký kết.
+ Việc xây dựng Nghị
định này cũng nhằm triển khai Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2020 của Chính
phủ ban hành chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt
động kinh doanh giai đoạn 2020-2025; hoàn chỉnh nội dung, thể chế cho việc cung
cấp dịch vụ công trực tuyến, nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ công
đối với thủ tục cấp giấy phép vận tải đường bộ qua biên giới; cắt giảm thủ tục
hành chính và hủy bỏ các chế độ báo cáo không cần thiết; đảm bảo tính thống
nhất, đồng bộ với các quy định của các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên
quan.
c) Nội dung chủ
yếu: Nghị định bao
gồm 09 Chương với 43 Điều, cụ thể như sau:
+ Chương I. Quy định
chung: gồm 05 Điều (từ Điều 1 đến Điều 5)
+ Chương II. Trình tự,
thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế và giấy phép
liên vận ASEAN: gồm 05 Điều (từ Điều 6 đến Điều 10)
+ Chương III. Trình tự,
thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế và giấy phép
liên vận GMS: gồm 05 Điều (từ Điều 11 đến Điều 15)
+ Chương IV. Trình tự,
thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế giữa Việt Nam
và Trung Quốc: gồm 07 Điều (từ Điều 16 đến Điều 22)
+ Chương V. Trình tự, thủ
tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế và giấy phép liên
vận giữa Việt Nam và Lào: gồm 06 Điều (từ Điều 23 đến Điều 28)
+ Chương VI. Trình tự,
thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế và giấy phép
liên vận giữa Việt Nam và Campuchia: gồm 06 Điều (từ Điều 29 đến Điều 34)
+ Chương VII. Trình tự,
thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế và giấy phép
liên vận giữa Việt Nam, Lào và Campuchia: gồm 04 Điều (từ Điều 35 đến Điều 38)
+ Chương VIII. Tổ chức
thực hiện: gồm 03 Điều (từ Điều 39 đến Điều 41)
+
Chương IX. Điều khoản thi hành: gồm 02 Điều (từ Điều 42 đến Điều 43)
- Phạm
vi điều chỉnh:
Nghị định này quy định về
trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế, giấy
phép liên vận cho đơn vị kinh doanh vận tải và phương tiện; gia hạn thời gian
lưu hành cho phương tiện của nước ngoài tại Việt Nam tham gia vận chuyển người,
hàng hóa giữa Việt Nam với các nước theo quy định của các điều ước quốc tế về
vận tải đường bộ qua biên giới mà Việt Nam là thành viên.
- Đối tượng áp dụng:
Nghị định này áp dụng đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động vận tải đường bộ qua
biên giới giữa Việt Nam với các nước theo quy định của các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên.
Nghị định này không áp
dụng đối với các đối tượng được miễn giấy phép theo quy định của các điều ước
quốc tế về vận tải đường bộ qua biên giới mà Việt Nam là thành viên.
- Nội dung cơ bản của
Nghị định:
Nghị định quy định về
trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép vận tải đường bộ quốc tế theo
các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết thời gian qua như trong khuổn
khổ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS);
các điều ước quốc tế song phương về vận tải đường bộ qua biên giới ký với các
nước Lào, Campuchia, Trung Quốc và điều ước quốc tế ba bên giữa Việt Nam, Lào và
Campuchia.
Nghị định được xây dựng
trên cơ sở kế thừa các quy định được thực hiện ổn định trong thời gian qua tại
các Thông tư của Bộ trưởng Bộ GTVT về vận tải đường bộ qua biên giới giữa Việt
Nam với Lào, Campuchia, Trung Quốc và các nước GMS đang có hiệu lực đồng thời
đơn giản hóa, hệ thống hóa và thống nhất về trình tự, thủ tục và triệt để áp
dụng dịch vụ công mức độ 4 nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
- Phụ lục đính
kèm: Nghị định bao
gồm 06 Phụ lục đính kèm, cụ thể:
- Phụ lục I: Các biểu mẫu
liên quan đến cấp, cấp lại Giấy phép vận tải đường bộ quốc tế ASEAN và Giấy phép
liên vận ASEAN.
- Phụ lục II: Các biểu
mẫu liên quan đến cấp, cấp lại Giấy phép vận tải đường bộ quốc tế GMS và Giấy
phép liên vận GMS.
- Phụ lục III: Các biểu
mẫu liên quan đến cấp, cấp lại Giấy phép vận tải đường bộ quốc tế giữa Việt Nam
và Trung Quốc.
- Phụ lục IV: Các biểu
mẫu liên quan đến cấp, cấp lại Giấy phép vận tải đường bộ quốc tế và Giấy phép
liên vận giữa Việt Nam và Lào.
- Phụ lục V: Các biểu mẫu
liên quan đến cấp, cấp lại Giấy phép vận tải đường bộ quốc tế và Giấy phép liên
vận giữa Việt Nam và Campuchia.
- Phụ lục VI: Các biểu
mẫu liên quan đến cấp, cấp lại Giấy phép liên vận giữa Việt Nam, Lào và
Campuchia.
12. Nghị định số
120/2021/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng
biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn
a) Hiệu lực thi
hành: Nghị định này
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
Nghị định
số111/2013/NĐ-CPngày 30 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng
biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn và Nghị định
số56/2016/NĐ-CPngày 29 tháng 6 năm 2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số111/2013/NĐ-CPngày 30 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy
định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn
hết hiệu lực kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành.
b) Sự cần thiết, mục
đích ban hành:
- Sự cần thiết ban
hành:
+ Cơ sở pháp lý
Ngày 13/11/2020, Quốc hội
khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm
hành chính(Luật số 67/2020/QH14), có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2022,
trong đó đã sửa đổi rất nhiều nội dung quan trọng về xử lý vi phạm hành chính
nói chung và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính nói riêng, trong đó có biện
pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là biện
pháp GDTXPTT), cụ thể:
Điểm b khoản 1
Điều 4 Luật XLVPHC (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 1 Luật số
67/2020/QH14) đã giao Chính phủ căn cứ quy định của Luật này quy định “chế độ áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính”.
Hệ thống các quy định về
áp dụng biện pháp GDTXPTT trong Luật XLVPHC hiện hành đã được sửa đổi, bổ sung
để phù hợp với thực tế hiện nay, cụ thể là:
Về đối tượng và điều kiện
áp dụng biện pháp GDTXPTT tại Điều 90 Luật XLVPHC (được sửa đổi, bổ sung tại
khoản 46 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14):
So với Luật XLPVHC hiện
hành, quy định về đối tượng, điều kiện áp dụng biện pháp GDTXPTT có những điểm
mới cơ bản sau:
Thứ nhất, làm rõ hơn quy
định “02 lần trở lên trong 06 tháng” thực hiện hành vi vi phạm là điều kiện để
áp dụng biện pháp GDTXPTT
Thứ hai, quy định cụ thể
các hành vi vi phạm là điều kiện để áp dụng biện pháp GDTXPTT gắn với độ tuổi
của từng đối tượng, bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch và sự phù hợp, thống nhất
với quy định của Bộ luật Hình sự.
Thứ ba, bãi bỏ quy định
về người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định là đối tượng
bị áp dụng biện pháp GDTXPTT; đồng thời, bổ sung đối tượng bị áp dụng biện pháp
GDTXPTT là người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Ngoài ra, để bảo đảm
thống nhất với quy định về đối tượng mới được bổ sung vào khoản 5 Điều 90 Luật
XLVPHC, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 7. Theo đó,
người quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
quy định tại khoản 5 Điều 90 Luật XLVPHC mà không có nơi cư trú ổn định thì được
giao cho cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em để quản lý, giáo dục
trong thời gian chấp hành biện pháp GDTXPTT.
Người từ đủ 18 tuổi trở
lên quy định tại khoản 5 Điều 90 Luật XLVPHC, mà không có nơi cư trú ổn định thì
giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phát hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma
túy lần thứ ba tổ chức quản lý.
Về thủ tục áp dụng biện
pháp GDTXPTT tại Điều 97 và Điều 98 Luật XLVPHC (được sửa đổi, bổ sung lần lượt
tại khoản 50 và khoản 51 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14):
Thứ nhất, bỏ quy định
công chức tư pháp – hộ tịch kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng biện
pháp GDTXPTT là một bước trong thủ tục áp dụng biện pháp này.
Thứ hai, rút ngắn các mốc
thời gian và tách bạch các bước trong thủ tục áp dụng biện pháp GDTXPTT.
Ngày 30/3/2021, Quốc hội
khóa XIV cũng đã thông qua Luật Phòng, chống ma túy (Luật số 73/2021/QH14), có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2022, theo đó có một số quy định trong Luật
này liên quan đến đối tượng bị áp dụng biện pháp GDTXPTT, đặc biệt là người sử
dụng trái phép chất ma túy, ví dụ như: Quản lý người sử dụng trái phép chất ma
túy; xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể; xác định tình trạng nghiện ma túy; đối
tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc,…
+ Cơ sở thực tiễn
Nghị định số
111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp
GDTXPTT và Nghị định số 56/2016/NĐ-CP ngày 29/6/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP được ban hành đã góp phần quan
trọng trong công tác phòng ngừa vi phạm hành chính, tội phạm, đảm bảo an ninh
trật tự, an toàn xã hội, đưa các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành năm 2012
(Luật XLVPHC) về áp dụng biện pháp GDTXPTT vào cuộc sống. Nghị định đã quy định
tương đối đầy đủ, cụ thể, rõ ràng về trình tự, thủ tục lập hồ sơ, ra quyết định,
thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tạo
điều kiện cho lực lượng thực thi công vụ được dễ dàng, thuận lợi, bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên, qua 08 năm
triển khai thi hành, bên cạnh những kết quả đạt được, các Nghị định cũng đã bộc
lộ một số hạn chế, vướng mắc nhất định như:
Những khó khăn, vướng
mắc, bất cập trong các quy định của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP (được sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định số 56/2016/NĐ-CP) như: Không có quy định thẩm quyền áp
dụng biện pháp GDTXPTT trong trường hợp khuyết chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã, khó khăn trong việc xác định người không có nơi cư trú ổn
định; Điều 36 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP lại quy định việc miễn chấp hành phần
thời gian còn lại của quyết định áp dụng biện pháp GDTXPTT (chưa phù hợp với quy
định của Luật XLVPHC;…
Những khó khăn, vướng
mắc, bất cập trong tổ chức thực hiện các nội dung quy định của Nghị định số
111/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 56/2016/NĐ-CP): Đã có quy
định về hỗ trợ kinh phí cho người được phân công giúp đỡ người được giáo dục,
nhưng đến nay vẫn còn địa phương chưa bố trí kinh phí đối với nội dung này; khó
xác định người có uy tín trong dòng họ, cộng đồng dân cư, năng lực và kinh
nghiệp giúp đỡ, giáo dục nên Chủ tịch UBND cấp xã thường giao cho trưởng phố,
thôn hoặc bí thư chi bộ phố, thôn là người trực tiếp quản lý, giáo dục; quy định
một trong những nghĩa vụ của người được giáo dục là “hàng tháng phải báo cáo
bằng văn bản với người được phân công giúp đỡ về tình hình học tập, lao động,
rèn luyện, tu dưỡng, kết quả sửa chữa sai phạm và sự tiến bộ của mình”. Trên
thực tế, có những trường hợp không biết đọc, biết viết thì thực hiện nghĩa vụ
này rất khó khăn, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số;…
Nội dung này được nêu cụ
thể tại Báo cáo tổng kết 08 năm thực hiện Nghị định số 111/2013/NĐ-CP (được sửa
đổi, bổ sung bởi Nghị định số 56/2016/NĐ-CP) kèm theo Tờ trình này.
Ngày 26/01/2021, Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 126/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai thi
hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC, trong đó, giao Bộ Tư
pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan có liên quan nghiên cứu, xây dựng,
trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành
chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn (thay thế Nghị định số 111/2013/NĐ-CP và
Nghị định số 56/2016/NĐ-CP).
Xuất phát từ những lý do
nêu trên, việc nghiên cứu, xây dựng Nghị định quy định chế độ áp dụng biện pháp
xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn là cần thiết.
- Mục đích ban hành:
+ Xây dựng dự thảo Nghị
định quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường,
thị trấn bảo đảm phù hợp với quy định của Luật số 67/2020/QH14 và Luật số
73/2021/QH14.
+ Khắc phục những vướng
mắc, bấp cập xuất phát từ các quy định của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP, Nghị
định số 56/2016/NĐ-CP, những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn tổ
chức thi hành các Nghị định này.
c) Nội dung chủ
yếu: Nghị định gồm
05 Chương và 56 Điều quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục
tại xã, phường, thị trấn, cụ thể: (1) Những quy định chung; (2) Thủ tục lập hồ
sơ, xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và
biện pháp quản lý tại gia đình; (3) Thi hành quyết định áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; (4) Thi
hành quyết định áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình; (5)
Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân; (6) Điều
khoản thi hành.
Nghị định áp dụng đối
với: (1) Người bị đề nghị và bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn; (2) Người được áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình; (3) Cơ quan, người
có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị và quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn và biện pháp quản lý tại gia đình; (4) Cơ quan, tổ chức, cá
nhân tham gia vào việc tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn và biện pháp quản lý tại gia đình; (5) Cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác có liên quan.
Ban hành kèm theo Nghị
định một số biểu mẫu trong áp dụng biện pháp xử lý hành
chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành
chính quản lý tại gia đình.
13. Nghị định số
121/2021/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ về kinh doanh trò chơi
điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài
a) Hiệu lực thi
hành: Nghị định này
có hiệu lực từ ngày 12 tháng 02 năm 2022.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:Trước
khi Nghị định số 121/2021/NĐ-CP được ban hành, pháp lý về kinh doanh trò chơi
điện tử có thưởng được thực hiện theo quy định của Nghị định số86/2013/NĐ-CP
ngày 29/7/2013 về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước
ngoài. Trên cơ sở đánh giá quá trình triển khai Nghị định số 86/2013/NĐ-CP, Bộ
Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2021/NĐ-CP nhằm
- Hoàn thiện khung khổ
pháp lý về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng đồng bộ với hệ thống pháp luật
hiện hành như Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Đầu tư, Luật Doanh
nghiệp, Luật Du lịch, Luật quản lý xuất, nhập cảnh.
- Sửa đổi, bổ sung các
quy định trong tổ chức kinh doanh, quản lý, giám sát để khắc phục các tồn tại,
hạn chế trong triển khai thực hiện.
- Rà soát, hoàn thiện quy
định về điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh phù hợp với sự
phát triển của kinh tế xã hội, đảm bảo kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh
trò chơi điện tử có thưởng. Đồng thời, thực hiện cải cách thủ tục hành chính
theo đúng định hướng của Chính phủ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ theo quy định của pháp luật.
c) Nội dung chủ
yếu:Nghị định số
121/2021/NĐ-CP quy định về việc kinh doanh và quản lý hoạt động kinh doanh trò
chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, Nghị định số 121/2021/NĐ-CP đã kế thừa những
nội dung còn phù hợp của Nghị định số 86/2013/NĐ-CP về: phạm vi điều chỉnh và
đối tượng áp dụng; nguyên tắc kinh doanh TCĐTCT; nguyên tắc xác định số lượng
máy được phép kinh doanh căn cứ số lượng buồng lưu trú theo tỷ lệ 05 buồng/01
máy; tiêu chuẩn, điều kiện và yêu cầu quản lý đối với máy TCĐTCT; tái xuất, tiêu
hủy máy TCĐTCT; các Quy chế, Thể lệ trò chơi; quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
và người chơi; các quy định về quảng cáo, khuyến mại, tài chính, kế toán và kiểm
toán; trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước.
Bên cạnh các nội dung kế
thừa nêu trên, Nghị định số 121/2021/NĐ-CP đã bổ sung, hoàn thiện một số nội
dung như sau:
- Về cấp phép Giấy chứng
nhận đủ điều kiện kinh doanh
+ Đối với cấp mới Giấy
chứng nhận ĐĐKKD: Nghị định số 121/2021/NĐ-CP giữ nguyên số lượng điều kiện và
quy định về điều kiện tài chính (doanh nghiệp phải có vốn điều lệ 500 tỷ đồng và
kinh doanh có lãi năm liền kề trước năm xin cấp phép) và Điểm kinh doanh (nâng
quy định về thời gian lưu trữ dữ liệu hệ thống camera theo dõi, giám sát) để đảm
bảo nguyên tắc kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng là kinh doanh có điều kiện,
cần kiểm soát chặt chẽ, chỉ cấp phép cho các doanh nghiệp có năng lực.
+ Đối với điều chỉnh, cấp
lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh: Nghị định bổ sung quy định doanh
nghiệp phải làm thủ tục điều chỉnh khi thay đổi bất kỳ nội dung của Giấy chứng
nhận đủ điều kiện kinh doanhvà phải làm thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều
kiện kinh doanh khi tổ chức lại doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp (chia,
tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp) để đảm bảo nguyên
tắc quản lý chặt chẽ đối với hoạt động kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng,
doanh nghiệp chỉ được tổ chức kinh doanh sau khi được cấp phép và phải kinh
doanh đúng nội dung được cấp phép.
+ Đối với hồ sơ, quy
trình thủ tục: Nghị định số 121/2021/NĐ-CP đã quy định cụ thể thành phần hồ sơ
và trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, điều chỉnh và gia hạn Giấy chứng nhận đủ điều
kiện kinh doanh. Trong đó, Nghị định đã thực hiện cải cách thủ tục hành chính
theo hướng: giảm bớt thành phần hồ sơ của 02 thủ tục; giảm yêu cầu doanh nghiệp
chỉ cần cung cấp các tài liệu là bản sao (thay vì bản sao có chứng thực) và mở
rộng thêm phương thức nộp hồ sơ qua Cổng dịch vụ công của Bộ Tài chính để tạo
thuận lợi cho doanh nghiệp, tiết kiệm chi phí.
- Về tổ chức kinh doanh
trò chơi điện tử có thưởng
+ Về chủng loại máy, loại
hình trò chơi điện tử có thưởng: quy định cụ thể danh mục các chủng loại máy,
loại hình trò chơi được phép kinh doanh và quy định số lượng người chơi tối đa
32 người đối với máy trò chơi điện tử có thưởng dành cho nhiều người chơi.
+ Về quản lý máy, thiết
bị trò chơi điện tử có thưởng: để đảm bảo quản lý chặt chẽ đối với hoạt động
kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng, tại Nghị định quy định rõ:
+ Khi mua, nhập khẩu máy
trò chơi điện tử có thưởng hoặc làm thủ tục kiểm định máy trò chơi điện tử có
thưởngdoanh nghiệp phải yêu cầu nhà sản xuất, cung cấp máy hoặc tổ chức kiểm
định độc lập cung cấp đầy đủ các tài liệu chứng minh đáp ứng các điều kiện và
doanh nghiệp có trách nhiệm lưu trữ các tài liệu này để phục vụ công tác quản
lý, giám sát, kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền;
+ Việc bảo dưỡng, sửa
chữa máy trò chơi điện tử có thưởng chỉ được thực hiện trong Điểm kinh doanh
hoặc tại các tổ chức thực hiện bảo dưỡng, sửa chữa máy trò chơi điện tử có
thưởng. Doanh nghiệp phải ký hợp đồng bảo dưỡng, sửa chữa với tổ chức thực hiện
bảo dưỡng, sửa chữa máy trò chơi điện tử có thưởng và phải lưu trữ các tài liệu
này để phục vụ công tác quản lý, giám sát, kiểm tra, thanh tra. Nếu việc bảo
dưỡng, sửa chữa máy trò chơi điện tử có thưởng liên quan đến các bộ phận làm
thay đổi tỷ lệ trả thưởng thì doanh nghiệp phải thuê tổ chức kiểm định độc lập
để kiểm định lại trước khi đưa máy vào sử dụng;
+ Doanh nghiệp phải lưu
trữ máy trò chơi điện tử có thưởng, thiết bị trò chơi chưa đưa vào kinh doanh,
tạm thời không sử dụng hoặc bị hỏng, hư hại, chờ tái xuất, tiêu hủy tại một căn
phòng riêng biệt nằm trong Điểm kinh doanh.
+ Về người quản lý, điều
hành Điểm kinh doanh: Nghị định số 121/2021/NĐ-CP quy định riêng một điều về
người quản lý, điều hành Điểm kinh doanh theo hướng:
+ Người quản lý, điều
hành phải có trình độ Đại học trở lên, có tối thiểu 03 năm kinh nghiệm quản lý,
điều hành hoạt động kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng;
+ Quy định trách nhiệm
người quản lý, điều hành phải quản lý, điều hành, giám sát thường xuyên toàn bộ
hoạt động kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng tại Điểm kinh doanh đảm bảo tuân
thủ quy định pháp luật và phải làm việc toàn bộ thời gian tại Điểm kinh doanh;
+ Trường hợp có thay đổi
người quản lý, điều hành, doanh nghiệp phải bố trí người quản lý, điều hành đáp
ứng điều kiện, tiêu chuẩn và gửi văn bản thông báo kèm theo các tài liệu chứng
minh đến Bộ Tài chính. Trường hợp phát hiện người quản lý, điều hành không đáp
ứng điều kiện, tiêu chuẩn, trong thời hạn 60 ngày, doanh nghiệp phải bố trí
người quản lý, điều hành khác đáp ứng đầy đủ điều kiện. Sau thời hạn nêu trên mà
doanh nghiệp không bố trí được người quản lý, điều hành đáp ứng điều kiện, tiêu
chuẩn, doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh cho đến khi bố trí được người quản
lý, điều hành thay thế.
- Về thanh tra, kiểm tra:
nhằm tránh trùng lắp, chồng chéo, hạn chế việc doanh nghiệp bị kiểm tra nhiều
lần trong một năm, Nghị định số 121/2021/NĐ-CP đã cắt giảm quy định về kiểm tra
định kỳ hàng năm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
cơ quan công an cấp huyện trở lên thực hiện kiểm tra đột xuất khi phát hiện
doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm. Việc kiểm tra định kỳ được Bộ Tài chính chủ
trì, phối hợp các Bộ, ngành thực hiện 03 năm/lần.
Ban hành kèm theo Nghị
định 02 Phụ lục các Biểu mẫu để quy định về kinh doanh trò chơi điện tử có
thưởng dànhcho người nước ngoài.
14. Nghị định số
123/2021/NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng
hải; giao thông đường bộ, đường sắt; hàng không dân dụng
a) Hiệu lực thi
hành:
Nghị định này có hiệu lực
thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
Điều khoản chuyển tiếp:
Đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải; giao thông đường
bộ, đường sắt; hàng không dân dụng xảy ra trước ngày Nghị định này có hiệu lực
thi hành mà sau đó mới bị phát hiện hoặc đang xem xét giải quyết thì áp dụng các
quy định có lợi cho tổ chức, cá nhân vi phạm.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
- Sự cần
thiết ban hành Nghị định:
Cơ sở
pháp lý:Luật
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội ban
hành, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2022 có nhiều
nội dung mới như: Bổ sung giải thích thuật ngữ “tái phạm”, quy định cụ thể về
nguyên tắc xử phạt đối với từng hành vi trong trường hợp “vi phạm hành chính
nhiều lần”, bổ sung quy định Chính phủ được giao quy định hành vi vi phạm hành
chính đã kết thúc và hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện; tăng mức phạt
tiền tối đa trong một một số lĩnh vực (trong đó có lĩnh vực giao thông đường
bộ); tăng thẩm quyền xử phạt của một số chức danh,... Vì vậy, các nội dung liên
quan đến xử phạt vi phạm trong các lĩnh vực hàng hải (được quy định tại Nghị
định số 142/2017/NĐ-CP ngày 11/12/2017), lĩnh vực đường bộ, đường sắt (được quy
định tại Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019), lĩnh vực hàng không dân
dụng (được quy định tại Nghị định số 162/2018/NĐ-CP ngày 30/11/2018) phải được
cập nhật, sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính và có cơ sở triển khai
thực hiện từ ngày 01/01/2022.
Cơ sở thực tiễn: Sau hơn
03 năm triển khai thực hiện thi hành Nghị định số 142/2017/NĐ-CP ngày 11/12/2017
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải, 02 năm triển khai
thực hiện Nghị định số 162/2018/NĐ-CP ngày 30/11/2018 quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng, hơn 01 năm triển khai thực hiện
Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt, bên cạnh những kết quả đạt được
cũng có một số vấn đề cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực
tiễn như:
+ Đối với xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hàng hải: chưa có quy định xử phạt đối với hành vi vi
phạm hành chính về quản lý thu gom và xử lý chất thải từ tàu thuyền trong vùng
nước cảng; về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu thuyền gây ra; về kiểm soát các hệ thống
chống hà độc hại của tàu; về quản lý, kiểm soát nước dằn, cặn nước dằn của tàu
thuyền; về nhận chìm chất nạo vét; về lao động hàng hải, khai báo tai nạn lao
động hàng hải; về phòng chống thiên tai trong lĩnh vực hàng hải; về phòng chống
dịch bệnh truyền nhiễm trong lĩnh vực hàng hải,…
+ Đối với xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đường bộ: mức xử phạt đối với một số hành vi vi
phạm hành chính chưa phù hợp, cần nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp với tính
chất, mức độ của hành vi như: chở vượt quá khối lượng chuyên chở theo Giấy chứng
nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường; chở quá sức chở của đầu kéo; xe
không đúng kích thước thành thùng; đặc biệt là các hành vi vi phạm liên quan đến
chở hàng siêu trường, siêu trọng, chở quá khổ, quá tải cầu đường, …
+
Đối với xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng: chưa có quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm trong lĩnh vực hàng
không, chưa có quy định về xử phạt vi phạm hành chính về
quản lý nhiên liệu tiêu thụ và
phát thải khí CO2.
Ngoài ra, trong lĩnh vực
giao thông hàng hải, đường bộ, đường sắt và hàng không dân dụng có nhiều văn bản
quy phạm pháp luật mới được ban hành như: Nghị định số 43/2018/NĐ-CP, Nghị định
số 159/2018/NĐ-CP, Nghị định số 06/2021/NĐ-CP, Quyết định số 12/QĐ-TTg, Thông tư
số 27/2019/TT-BGTVT, Thông tư số 19/2018/TT-BNNPTNT (đối với lĩnh vực hàng hải);
Nghị định số 10/2020/NĐ-CP, Nghị định số
128/2020/NĐ-CP, Thông tư số 12/2020/TT-BGTVT, Thông tư số
01/2021/TT-BGTVT (đối với lĩnh vực đường bộ); Nghị định số 05/2021/NĐ-CP,
Nghị định số 89/2019/NĐ-CP, Thông tư số
22/2020/TT-BGTVT, Thông tư số 21/2020/TT-BGTVT
(đối với lĩnh vực hàng không). Vì vậy, đòi hỏi cần phải rà soát để cập
nhật, bổ sung mới hoặc sửa đổi các hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực
đó để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ.
Xuất phát từ những lý do
trên, việc nghiên cứu, xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các
Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải; giao thông đường
bộ, đường sắt; hàng không dân dụng là hết sức cần thiết.
- Mục đích ban hành
Nghị định:
+ Hoàn thiện hệ thống văn
bản QPPL về xử phạt vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hàng hải, giao thông đường bộ và đường sắt, hàng không dân dụng
nói riêng, tạo cơ sở pháp lý cho việc xử phạt vi phạm hành chính được thực thi
hiệu quả; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật.
+ Việc xây dựng Nghị định
nhằm cập nhật những nội dung mới trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Xử lý vi phạm hành chính, làm căn cứ để xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hàng hải, giao thông đường bộ, đường sắt và hàng không dân dụng góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông
vận tải. Đồng thời góp phần làm giảm hành vi vi phạm hành chính trong thực tiễn
hiện nay.
+ Kịp thời giải quyết
những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thi hành các quy định của
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải, đường bộ, đường
sắt, hàng không dân dụng nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý trong thi hành
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông vận tải nói riêng.
c) Nội dung chủ
yếu: Ngoài phần căn
cứ ban hành, Nghị định bao gồm 06 Điều, cụ thể như sau:
- Điều 1. Sửa đổi, bổ
sung, bãi bỏ một số điều của Nghị định số 142/2017/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm
2017 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải
- Điều 2. Sửa đổi, bổ
sung, bãi bỏ một số điều của Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm
2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ và đường sắt
- Điều 3. Sửa đổi, bổ
sung, bãi bỏ một số điều của Nghị định số 162/2018/NĐ-CP ngày 30 tháng 11 năm
2018 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không
dân dụng
- Điều 4. Hiệu lực thi
hành
- Điều 5. Điều khoản
chuyển tiếp
- Điều 6. Tổ chức thực
hiện
Nội dung cơ bản của
Nghị định:
- Sửa đổi, bổ sung
Nghị định số 142/2017/NĐ-CP ngày 11/12/2017 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải
+
Bổ sung quy định làm rõ sự khác
nhau giữa hộ kinh doanh và tổ chức nhằm đảm bảo tính thống nhất, minh bạch trong
quá trình áp dụng xử phạt vi phạm hành chính;
Bổ sung quy định hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc, hành vi vi phạm hành
chính đang thực hiện, hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục
hậu quả; Bổ sung phương pháp xác định trọng tải toàn phần, công suất tàu thuyền
đối với tàu thuyền không có thông tin để có dữ liệu về trọng tải toàn phần, sức
nâng, số ghế ngồi, công suất máy chính mà chỉ có dữ liệu về Lượng giãn nước hoặc
kích thước L*B*H… nhằm đảm bảo tính thống nhất, minh bạch trong quá trình áp
dụng xử phạt vi phạm hành chính.
+
Sửa đổi các hành vi vi phạm hành
chính “giả mạo” (tại khoản 2 Điều 7, điểm c khoản 4 Điều 20, điểm b khoản 2 Điều
40, điểm a khoản 4 Điều 42) để tránh trùng lặp với các hành vi tội phạm quy định
tại Điều 341 Bộ luật hình sự; Sửa đổi, bổ sung các hành vi vi phạm quy định về
xây dựng, quản lý và khai thác kết cấu hạ tầng để đảm bảo phù hợp với các quy
định tại Nghị định số 43/2018/NĐ-CP, Nghị định số 159/2018/NĐ-CP, Nghị định số
06/2021/NĐ-CP, Quyết định số 12/QĐ-TTg Thông tư số 27/2019/TT-BGTVT, Thông tư số
19/2018/TT-BNNPTNT; Sửa đổi, bổ sung hành vi vi phạm về niêm yết thông tin về
giá, phụ thu ngoài giá dịch vụ vận chuyển hàng hóa Công-te-nơ bằng đường biển,
giá dịch vụ tại cảng biển trên để đảm bảo phù hợp với quy định tại Nghị định số
146/2016/NĐ-CP ngày 02/11/2016
quyđịnh
việc niêm yết giá,
phụ thu ngoài giá dịch vụ vận chuyển
hàng hóa công-te-nơ bằng
đường biển,
giá dịch vụ tại cảng biển.
+
Bổ sung các hành vi vi phạm và chế
tài xử phạt đối với vi phạm quy định về quản lý thu gom và xử lý chất thải từ
tàu thuyền trên vùng nước cảng biển, vi phạm quy định về kiểm soát các hệ thống
chống hà độc hại của tàu; Vi phạm quy định về quản lý, kiểm soát nước dằn, cặn
nước dằn của tàu thuyền, vi phạm quy định về nhận chìm; Vi phạm quy định về lao
động hàng hải; khai báo tai nạn lao động hàng hải, các hành vi vi phạm về phòng
chống thiên tai trong lĩnh vực hàng hải để có đầy đủ chế tài xử phạt vi phạm
hành chính đối với các hành vi vi phạm xảy ra trong thực tiễn.
+
Bổ sung các hành vi vi phạm và chế
tài xử phạt đối với quy định về phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm trong lĩnh
vực hàng hải để có đủ chế tài xử phạt vi phạm xảy ra trong thực tiễn trước tình
hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid 19. Việc bổ sung quy định này đảm
bảo nguyên tắc hành vi và mức xử phạt vi phạm hành chính tương đương với các quy
định tại Nghị định số 117/2020/NĐ-CP ngày 28/9/2020 quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực y tế.
+
Điều chỉnh tăng mức xử phạt đối
với các hành vi vi phạm như: Vi
phạm quy định về cân xác
nhận khối lượng toàn bộ đối với mỗi Công-te-nơ vận tải biển; vi
phạm quy định về thủ tục vào, rời cảng biển hoặc quá cảnh
để tăng tính răn đe, hạn chế các hành vi vi phạm trong thực tiễn; Vi
phạm quy định về xếp hàng hóa lên xe ô tô trong vùng đất cảng,
vi
phạm quy định đối với người điều khiển ô tô và các loại phương tiện tương tự ô
tô trong vùng đất cảng
đảm bảo nguyên tắc hành vi và mức xử phạt vi phạm hành chính tương đương với các
quy định tại Nghị định số 100/2019/NĐ-CP quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt;
Vi phạm quy
định trong khi dẫn tàu của hoa tiêu hàng hải,
đặc biệt là các hành vi vi phạm liên quan đến nồng độ cồn để phù hợp với tính
chất, mức độ, của hành vi, đảm bảo tính răn đe khi thực hiện hành vi “cấm” bởi
vì khoản 6 Điều 5 Luật phòng, chống tác hại rượu bia quy định điều khiển phương
tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn là một trong các hành
vi cấm; Vi
phạm quy định về hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu
đảm bảo nguyên tắc hành vi và mức xử
phạt vi phạm hành chính tương đương với các tại Nghị định số 155/2016/NĐ-CP quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
+
Sửa đổi, bổ sung một số nội dung
về thẩm quyền xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả để phù hợp với Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đường bộ, đường sắt
+ Sửa đổi, bổ sung quy
định “tổ hợp tác” là tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính để đảm bảo phù hợp
với khoản 1 Điều 3 Nghị định số 77/2019/NĐ-CP ngày 10/10/2019;Bổ sung quy định
hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc, hành vi vi phạm hành chính đang thực
hiện; Sửa đổi, bổ sung các vi vi phạm liên quan
đến thu phí theo hình thức tự động không dừng để mô tả lại các hành vi vi phạm
cho rõ ràng, đảm bảo tính thống nhất, minh bạch trong quá trình áp dụng
xử phạt vi phạm hành chính.
+
Tăng mức xử phạtđối
với hành vi chở hàng quá tải trọng cho phép của cầu đường,
theo đó gom
lại từ 5 mức thành 3 mức gồm quá 10-20%, từ 20-100%, trên 100% và tăng mức xử
phạt cao đối với mức 2 trở lên (tăng phạt lái xe và chủ phương tiện)
bởi vì đây là các hành vi vi
phạm gây ảnh hưởng nghiêm trọng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, cần phải
tăng mức xử phạt để đảm bảo tính răn đe, góp phần bảo vệ kết cấu hạ tầng giao
thông đường bộ.
+
Sửa đổi, bổ sung các hành vi vi
phạm liên quan đến hoạt động kinh doanh vận tải để mô tả rõ ràng các hành vi, bổ
sung các hành vi chưa có chế tài xử phạt đảm bảo phù hợp với quy định tại
Nghị định số
10/2020/NĐ-CP ngày 17/1/2020 quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận
tải bằng xe ô tô, Thông
tư số 12/2020/TT-BGTVT ngày 29/5/2020
quy định
về tổ chức, quản lý hoạt động vận tải bằng xe ô tô và dịch vụ hỗ trợ vận tải
đường bộ.
+
Các hành vi vi phạm
hành chính tăng mức xử phạt, bao gồm: Vi phạm về
quy tắc giao thông:
vi phạm quy định về dừng xe, đỗ xe trên đường cao tốc; không
nhường đường hoặc gây cản trở xe được quyền ưu tiên đang phát tín hiệu ưu tiên
đi làm nhiệm vụ;
đi ngược chiều của đường một chiều; không đội mũ bảo hiểm; Vi phạm quy định về
điều kiện của phương tiện tham gia giao thông đường bộ: hành vi che biển số xe
để tăng cường xử lý các trường hợp cố tình gây khó khăn trong việc xử lý vi phạm
hành chính thông qua camera; hành vi không đủ hệ thống hãm hoặc có đủ hệ thống
hãm nhưng không có tác dụng, không có tiêu chuẩn; hết hạn đăng kiểm; quá niên
hạn sử dụng; Vi phạm quy định về điều kiện người điều khiển xe cơ giới: hành vi
không có giấy phép lái xe hoặc sử dụng giấy phép lái xe hết hạn;
Hành vi
sản xuất, lắp ráp trái phép
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; sản xuất, bán biển số phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ trái phép; Hành vi tự ý thay đổi màu sơn của xe;
đua xe trái
phép; Hành vi người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gắn biển
số nước ngoài.
+ Bổ sung quy định xử
phạt đối với người trực tiếp điều khiển phương tiện giao thông đường sắt phục vụ
dây truyền công nghệ của doanh nghiệp bởi vì Điều 3 Thông tư số 33/2018/TT-BGTVT
ngày 14/5/2018 có quy định về chức danh người
trực tiếp điều khiển phương tiện giao thông đường sắt phục vụ dây chuyền công
nghệ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, chưa có chế tài xử phạt vi phạm hành
chính đối với chức danh này.
+ Sửa đổi theo hướng mô
tả rõ hơn hành vi không tổ chức kiểm tra sức khỏe cho nhân viên đường sắt phục
vụ chạy tàu cho phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 21 Luật An toàn, vệ sinh
lao động 2015, đảm bảo cơ sở pháp lý để xử phạt vi phạm hành chính.
+ Sửa
đổi, bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính;thủ
tục xử phạt đối với chủ phương tiện, người điều khiển phương tiện vi phạm quy
định liên quan đến giao thông đường bộ;
quy định về tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề trong trường hợp
cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhiều lần; quy định tạm
giữ phương tiện, giấy tờ có liên quan đến người điều khiển và phương tiện vi
phạm để phù hợp với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý
vi phạm hành chính.
- Sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 162/2018/NĐ-CP ngày 30/11/2018 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng
+ Bổ sung quy định hành
vi vi phạm hành chính đã kết thúc, hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện; Bổ
sung quy định xử phạt vi phạm hành chính đối vi vi phạm tạo ra khói, lửa trên
tàu bay trên cơ sở thực tiễn đã xảy ra các trường hợp hành khách bật lửa trên
tàu bay để đốt khăn tẩm cồn.
+ Sửa đổi, bổ sung các
hành vi vi phạm về quản lý và khai thác cảng hàng không, sân bay; hành vi vi
phạm quy định về cung cấp dịch vụ tại cảng hàng không, sân bay; hành vi vi phạm
về bảo vệ môi trường trong khai thác tàu bay; hành vi vi phạm quy định về thực
hiện công việc theo tài liệu, quy trình và yêu cầu công việc của nhân viên hàng
không và người lao động khác; vi phạm quy định về đào tạo, bồi dưỡng huấn luyện
chuyên môn, nghiệp vụ cho nhân viên hàng không; Sửa đổi, bổ sung các quy định về
hoạt động vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung để phù hợp, thống
nhất với quy định tại Nghị định số 89/2019/NĐ-CP ngày 15/11/2019 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 92/2016/NĐ-CP và Nghị định số 30/2013/NĐ-CP;
Thông tư số 21/2020/TT-BGTVT ngày 28/9/2020 sửa đổi bổ sung một số điều của
Thông tư số 81/2014/TT-BGTVT, Thông tư số 14/2015/TT-BGTVT và Thông tư số
33/2016/TT-BGTVT.
+ Bổ sung quy định xử
phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm về phòng chống dịch bệnh
truyền nhiễm trong lĩnh vực hàng không dân dụng để có đủ chế tài xử phạt vi phạm
xảy ra trong thực tiễn trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid
19. Việc bổ sung quy định này đảm bảo nguyên tắc hành vi và mức xử phạt vi phạm
hành chính tương đương với các quy định tại Nghị định số 117/2020/NĐ-CP ngày
28/9/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
+ Sửa đổi, bổ sung thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính; hình thức tước giấy phép, chứng chỉ hành nghề;
biện pháp khắc phục hậu quả; quy định về sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật
nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính để phù hợp với Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
15. Nghị định số
125/2021/NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới
a) Hiệu lực thi
hành:
Nghị định có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
Nghị định số
55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
về bình đẳng giới
hết hiệu lực kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
Nghị định số 125/2021/NĐ-CP được ban hành đảm bảo
xử lý
kịp thời những
hạn chế, vướng mắc, bất cập về tính thống nhất đồng bộ của
Nghị định 55/2009/NĐ-CP
hiện hành trong hệ thống pháp luật
và tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là
Luật Bình đẳng giới, Luật Xử lý vi phạm hành chính, các văn bản hướng dẫn thi
hành các luật trên. Đồng
thời, nhằm bảo đảm tính hiệu quả, khả thi trong thực tiễn đấu tranh chống vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới thì
việc
xây dựng,
ban hành
Nghị định
quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vựcbình đẳng giớiđể
thay
thế Nghị định 55/2009/NĐ-CP
hiện hành là hết sức cần thiết.
Nghị định cũng tạo hành
lang pháp lý cho cơ quan quản lý nhà nước thực hiện hoạt động thanh tra, xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới, góp phần đảm bảo và thúc đẩy
bình đẳng giới, phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới nói riêng và các
vi phạm pháp luật về bình đẳng giới nói chung.
c) Nội dung chủ
yếu: Nghị định gồm 4
chương, 23 điều quy định những nội dung về phạm
vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, thời hiệu xử phạt, các hình thức xử phạt và
biện pháp khắc phục hậu quả, quy định về mức phạt tiền, thẩm quyền phạt tiền đối
với cá nhân, tổ chức. Quy định cụ
thể về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp
khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm hành chính, thẩm quyền lập biên bản,
thẩm quyền xử phạt, mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh đối với hành vi vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới.
-Các quy định chủ yếu,
các nội dung, vấn đề của VBQPPL được dư luận quan tâm.
+ Sửa đổi, bổ sung các quy định chung nhằm đảm bảo phù hợp với
quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính: bổ sung các quy định về hành vi vi
phạm hành chính về bình đẳng giới đang được thực hiện và hành vi vi phạm hành
chính đã kết thúc; điều chỉnh mức phạt tiền tối đa trong
lĩnh vực bình đẳng giới
là 30.000.000 đồng; bổ sung quy định về nguyên tắc áp dụng mức phạt tiền nhằm
đảm bảo phù hợp với quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính. Đặc biệt, Nghị
định đã bổ sung biện pháp khắc phục hậu quả “Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có
được do vi phạm” và “Buộc nộp lại giấy phép, chứng chỉ, giấy đăng ký hoạt động
bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung cho cơ quan, người có thẩm quyền đã
cấp các loại giấy phép, chứng chỉ, giấy đăng ký hoạt động đó”.
+
Bổ sung hành vi, hình thức và tăng mức xử phạt đối với nhiều hành vi để đảm bảo
tính răn đe, phòng ngừa: Bổ sung quy định xử phạt đối với một số hành vi vi phạm
về bình đẳng giới. Cụ thể như: hành vi phân biệt đối xử về giới trong bảo đảm an
toàn, vệ sinh lao động theo quy định; hành vi ép buộc hoặc nghiêm cấm người khác
lựa chọn việc làm, nơi làm việc, nghề nghiệp vì định kiến giới; hành vi vận
động, xúi giục, ép buộc hoặc cản trở người khác tham gia học tập, đến trường,
lựa chọn môn học, ngành, nghề học tập, đào tạo vì lý do giới tính,… Tăng mức xử
phạt đối với các hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm từ 200.000 đến 500.000 lên
2.000.000 đến 3.000.000.
+
Điều chỉnh các quy định về thẩm quyền lập biên bản và xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bình đẳng giới, cụ thể: Bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính của lực lượng Cảnh sát biển; bổ sung quy định cụ thể các chức danh có thẩm
quyền lập biên bản vi phạm hành chính và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
của từng chức danh trong lĩnh vực bình đẳng giới nhằm bảo đảm sự phù hợp với quy
định của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định cụ
thể việc phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính tại Điều 20 dự thảo
Nghị định.
16. Nghị định số 127/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 04/2021/NĐ-CP ngày 22 tháng 01 năm 2021 của
Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục
a) Hiệu lực thi hành:
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Ngày
13/11/2020, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý
vi phạm hành chính số Luật số: 67/2020/QH14 có hiệu lực từ 01/01/2022, mức phạt
tiền tối đa đối với cá nhân trong lĩnh vực giáo dục được sửa đổi tại khoản 10
Điều 1 của Luật: “Căn cứ quy định tại khoản 10 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14:
“Phạt tiền đến 75.000.000 đồng: cơ yếu; quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia;
quốc phòng, an ninh quốc gia; lao động; giáo dục; giáo dục nghề nghiệp; giao
thông đường bộ; giao thông đường sắt; giao thông đường thủy nội địa; bảo hiểm y
tế; bảo hiểm xã hội; bảo hiểm thất nghiệp; phòng, chống tệ nạn xã hội;”.
Điểm a khoản 3 Điều 3 Nghị định số 04/2021/NĐ-CP quy định mức phạt tiền tối đa
đối với cá nhân trong lĩnh vực giáo dục: “a) Mức phạt tiền tối đa trong lĩnh
vực giáo dục đối với cá nhân là 50.000.000 đồng, đối với tổ chức là 100.000.000
đồng;”. Như vậy để đảm bảo thống nhất mức phạt và thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giáo dục theo đúng quy định pháp luật và có hiệu lực
cùng thời điểm với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành
chính số 67/2020/QH14, việc nghiên cứu xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị
định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 04/2021/NĐ-CP quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là cần thiết.
c) Nội dung chủ yếu:
Nghị định có 5 Điều với một số nội dung chính như sau:
-
Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 04/2021/NĐ-CP;
- Thay thế, bãi bỏ một số khoản, cụm từ của Nghị định số
04/2021/NĐ-CP;
-
Quy định điều khoản chuyển tiếp
đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục xảy ra trước thời
điểm Nghị định này có hiệu lực thi hành mà sau đó mới bị phát hiện hoặc đang xem
xét, giải quyết thì áp dụng quy định của Nghị định số 04/2021/NĐ-CP trừ trường
hợp Nghị định này không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm
pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra, trước ngày Nghị định này có hiệu lực thì
áp dụng quy định tại Nghị định này. Đối với quyết định xử phạt vi phạm hành
chính đã được ban hành hoặc đã được thi hành xong trước thời điểm Nghị định này
có hiệu lực thi hành, mà cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính có khiếu
nại, thì áp dụng quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Nghị định
số 04/2021/NĐ-CP và các quy định pháp luật có liên quan để giải quyết.
17. Nghị định số
128/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 156/2020/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2020 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán
a) Hiệu lực thi
hành:Nghị định này
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
b) Sự cần thiết, mục
đích ban hành:
- Để đảm bảo triển khai
thi hành Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi
phạm hành chính theo Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật xử
lý vi phạm hành chính được ban hành theo Quyết định số 126/QĐ-TTg ngày
26/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ; khắc phục các vướng mắc trong quá trình thi
hành Nghị định số 156/2020/NĐ-CP, đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật
về chứng khoán và thị trường chứng khoán đảm bảo tính thực thi, hiệu lực, hiệu
quả trong quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trưởng chứng khoán.
- Hoàn thiện hành lang
pháp lý cho công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và
thị trường chứng khoán, hỗ trợ xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng đầu
tư tham gia thị trường chứng khoán.
c) Nội dung chủ yếu:Nghị
định bao gồm 03 Điều trong đó Điều 1 sửa đổi, bổ sung một số điều khoản của Nghị
định số 156/2020/NĐ-CP, Điều 2 bãi bỏ một số quy định tại Nghị định số
156/2020/NĐ-CP, Điều 3 quy định hiệu lực thi hành, điều khoản chuyển tiếp, trách
nhiệm tổ chức thực hiện.
Nghị
định sửa đổi phạm vi điều chỉnh của Nghị định 156/2020/NĐ-CP, theo đó Nghị định
quy định các hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện
pháp khắc phục hậu quả, việc thi hành các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
và biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền lập biên bản và thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nghị định
có đối tượng bị xử phạt quy định tại Điều 2 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP. Một số
nội dung chủ yếu của Nghị định bao gồm:
- Quy
định rõ hành vi che dấu thông tin về quyền sở hữu thực sự theo hướng ngắn gọn,
đồng thời bổ sung phần giải thích từ ngữ chi tiết đối với hành vi này nhằm tạo
thuận lợi cho việc phát hiện, xử lý vi phạm.
- Sửa
đổi, bổ sung nguyên tắc xử phạt theo đó tổ chức, cá nhân thực hiện nhiều hành vi
vi phạm hành chính, vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi
vi phạm, trừ trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính nhiều lần và các vi
phạm này được phát hiện ở cùng một thời điểm nhưng chưa bị xử phạt và chưa hết
thời hiệu xử phạt thì xử phạt vi phạm hành chính một lần về hành vi vi phạm,
đồng thời áp dụng tình tiết tăng nặng vi phạm hành chính nhiều lần. Quy định một
số trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần thì xử phạt về một hành vi có khung
phạt tiền cao nhất trong số các hành vi đã thực hiện và áp dụng tình tiết tăng
nặng vi phạm hành chính nhiều lần như: hành vi báo cáo không đúng thời hạn hoặc
không báo cáo khi có sự thay đổi về tỷ lệ sở hữu qua các ngưỡng 1% hoặc khi trở
thành/không còn là cổ đông lớn; hành vi báo cáo không đúng thời hạn về kết quả
thực hiện giao dịch hoặc không báo cáo về kết quả thực hiện giao dịch; hành vi
công bố thông tin không đúng thời hạn hoặc không công bố đối với thông tin phải
công bố quy định…
- Quy
định về thời điểm tính thời hiệu vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán,
thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm đối với một số hành vi như: hành vi vi phạm
quy định về thực hiện chào bán, phát hành chứng khoán; hành vi vi phạm chậm hồ
sơ đăng ký công ty đại chúng; với hành vi đăng ký giao dịch, niêm yết chứng
khoán quá thời hạn quy định…
- Sửa
đổi, bổ sung hành vi trong hoạt động chào bán, phát hành chứng khoán riêng lẻ để
mô tả phù hợp hơn với quy định về hoạt động chào bán, phát hành riêng lẻ tại
Nghị định số 155/2020/NĐ-CP và Nghị định số 153/2020/NĐ-CP như: hành vi công bố
báo cáo sử dụng vốn, sử dụng tài khoản phong tỏa, thay đổi mục đích/phương án sử
dụng vốn, thay đổi điều khoản trái phiếu....
- Bổ
sung hành vi không báo cáo về thay đổi phương án sử dụng vốn tại Đại hội đồng cổ
đông gần nhất trong chào bán ra công chúng; sửa đổi hành vi; bổ sung hành vi về
tài khoản phong tỏa trong phát hành thêm chứng khoán.
- Bổ
sung hành vi về thông báo tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa tại công ty đại chúng;
sửa đổi, bổ sung một số hành vi trong quản trị công ty đại chúng về họp và bỏ
phiếu trực tuyến, về đảm bảo cơ cấu và hoạt động của Ủy ban kiểm toán, Hội đồng
quản trị, Ban kiểm soát...
- Bổ
sung hành vi vi phạm về cổ phiếu quỹ theo khoản 4 Điều 310 Nghị định số
155/2020/NĐ-CP; sửa đổi một số hành vi về chào mua công khai, bổ sung dẫn chiếu
cụ thể đến Nghị định số 155/2020/NĐ-CP.
- Sửa
đổi hành vi, từ ngữ tại phần xử lý vi phạm của công ty chứng khoán, công ty quản
lý quỹ để đảm bảo thống nhất với các văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán 2019; bổ
sung hành vi công ty quản lý quỹ không tuân thủ hợp đồng ký với ngân hàng giám
sát theo Luật Chứng khoán 2019, bổ sung trường hợp ngoại trừ theo quy định pháp
luật đối với hành vi sử dụng tài sản ủy thác để cho vay…
- Sửa
đổi Điều 33 về vi phạm quy định về giao dịch của cổ đông lớn, người nội bộ và
người có liên quan của người nội bộ theo hướng: sửa đổi một số hành vi từ vi
phạm về công bố thông tin sang vi phạm về báo cáo; quy định rõ các khung phạt
tiền đối với hành vi không báo cáo trước khi giao dịch, hành vi không báo cáo về
kết quả giao dịch của người nội bộ và người có liên qua; quy định lại các khung
phạt tiền theo hướng bổ sung thêm khung phạt cảnh cáo vi phạm có giá trị giao
dịch nhỏ; sửa mức phạt đối với hành vi chậm báo cáo về kết quả giao dịch, giao
dịch ngoài khoảng thời gian đăng ký hoặc ngoài khoảng thời gian Sở giao dịch
chứng khoán công bố thông tin …
- Sửa
đổi hành vi che giấu thông tin nhằm trốn tránh nghĩa vụ công bố thông tin, nghĩa
vụ chào mua công khai hoặc quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài để phù hợp hơn
với mô tả hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Điều 12 Luật Chứng khoán 2019; nâng
khung phạt tiền đối với hành vi tạo dựng thông tin, che dấu thông tin trong hoạt
động chứng khoán từ 100-200 triệu đồng lên 200-300 triệu đồng; tách hành vi báo
cáo có nội dung sai lệch hoặc sai sự thật thành khoản riêng với mức phạt tiền
cao hơn, tương ứng với mức phạt của hành vi công bố thông tin sai lệch.
- Bổ
sung quy định về trường hợp áp dụng thủ tục xử phạt không lập biên bản đối với
một số hành vi có mức phạt cảnh cáo.
- Bổ
sung hướng dẫn cụ thể về gửi quyết định xử phạt, báo cáo kết quả thực hiện, đôn
đốc việc thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp áp dụng hình thức đình chỉ
hoạt động kinh doanh và dịch vụ, tước quyền sử dụng giấy phép, giấy chứng nhận,
chứng chỉ hành nghề, đình chỉ hoạt động giao dịch chứng khoán; bổ sung quy định
hướng dẫn về hình thức tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề chứng khoán, hình
thức đình chỉ hoạt động giao dịch chứng khoán; hướng dẫn thi hành các hình thức
xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực chứng
khoán và thị trường chứng khoán.
- Bổ
sung 01 Điều về việc công khai việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
chứng khoán, theo đó sẽ công khai việc xử phạt đối với tổ chức, cá nhân bị xử
phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền từ 70.000.000 đồng trở lên hoặc bị áp
dụng hình thức xử phạt chính là tước quyền sử dụng giấy chứng nhận, chứng chỉ
hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động giao dịch chứng khoán có thời hạn
hoặc bị áp dụng một trong các hình thức xử phạt bổ sung hoặc biện pháp khắc phục
hậu quả.
- Bãi bỏ 02 hành vi do
tại Luật Chứng khoán năm 2019 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã không còn quy
định nghĩa vụ pháp lý của tổ chức, cá nhân liên quan (cụ thể bỏ điểm a khoản 1
Điều 8 do tại Nghị định số 155/2020/NĐ-CP, Nghị định số 153/2020/NĐ-CP không còn
quy định về nghĩa vụ liên quan đến thông báo phát hành chứng khoán của tổ chức
phát hành chứng khoán riêng lẻ; bỏ điểm a khoản 1 Điều 29 do theo quy định tại
Điều 221 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP, trường hợp vi phạm này sẽ bị thu hồi Giấy
chứng nhận đăng ký hoạt động phân phối chứng chỉ quỹ).
18. Nghị định số 129/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi,
bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực du lịch; thể thao; quyền tác giả, quyền liên quan; văn hóa và quảng cáo
a) Hiệu lực thi hành:
Nghị định có
hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:Ngày
13/11/2020, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử
lý vi phạm hành chính, theo đó có sự thay đổi một số nội dung về thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính, mức phạt tiền tối đa của các lực lượng xử phạt vi phạm
hành chính, cụ thể:
-
Quy định về nguyên tắc xác định hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện và
hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc;
-
Thay đổi, bổ sung một số chức danh của các lực lượng xử phạt vi phạm hành chính;
-
Thay đổi thẩm quyền phạt tiền tối đa của một số chức danh;
-
Thay đổi thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
Do
vậy, để bảo đảm thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, cần thiết phải ban
hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch; thể thao; quyền tác giả, quyền liên
quan; văn hóa và quảng cáo.
c) Nội dung chủ yếu:
Nghị định ngoài
phần căn cứ pháp lý, nội dung được chia thành 7 Điều, bao gồm:
-
Điều 1 sửa đổi, bổ sung các quy định của Nghị định số 45/2019/NĐ-CP ngày
21/5/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du
lịch;
-
Điều 2 sửa đổi, bổ sung các quy định của Nghị định số 46/2019/NĐ-CP ngày
27/5/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể
thao;
-
Điều 3 sửa đổi, bổ sung các quy định của Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày
16/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả,
quyền liên quan; Nghị định số 28/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị
định số 131/2013/NĐ-CP;
-
Điều 4 sửa đổi, bổ sung các quy định của Nghị định số 38/2021/NĐ-CP ngày
29/3/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn
hóa và quảng cáo;
-
Điều 5 bổ sung, thay thế, bãi bỏ một số cụm từ, điểm của Nghị định số
45/2019/NĐ-CP, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP và Nghị định số 38/2021/NĐ-CP;
-
Điều 6 quy định trách nhiệm tổ chức thực hiện;
-
Điều 7 quy định điều khoản thi hành.
-
Nội dung cơ bản:
+
Bổ sung vào các Nghị định 01 Điều quy định về thời hiệu xử lý vi phạm hành
chính, nguyên tắc xác định hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc và hành vi vi
phạm hành chính đang thực hiện;
+
Điều chỉnh tên chính xác của Cục trưởng Cục Đường thủy nội địa Việt Nam; bổ sung
một số chức danh như Trưởng phòng Nghiệp vụ thuộc Cục Nghiệp vụ quản lý thị
trường (Quản lý thị trường); Đội trưởng Đội đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội
phạm thuộc Đoàn đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm, Đoàn trưởng Đoàn đặc
nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm thuộc Cục Phòng chống ma túy và tội phạm
thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng, Hải đoàn trưởng Hải đoàn biên phòng, Cục
trưởng Cục Phòng chống ma túy và tội phạm trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội biên
phòng (Bộ đội biên phòng); Đội trưởng Đội nghiệp vụ Cảnh sát biển, Trạm trưởng
trạm Cảnh sát biển, Hải đoàn trưởng Hải đoàn biên phòng, Cục trưởng Cục Phòng
chống ma túy và tội phạm trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục
Nghiệp vụ và Pháp luật thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam (Cảnh sát biển
Việt Nam) tại Nghị định số 45/2019/NĐ-CP, Nghị định số 46/2019/NĐ-CP, Nghị định
số 131/2013/NĐ-CP, Nghị định số 38/2021/NĐ-CP; - Điều chỉnh thẩm quyền tịch thu
tang vật, phương tiện vi phạm hành chính: Được tịch thu tang vật, phương tiện có
giá trị không quá 02 lần mức tiền phạt của một số chức danh như thanh tra sở,
trưởng đoàn thanh tra Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Trưởng công an cấp
xã, một số chức danh của Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, Quản lý thị
trường. Được tịch thu tang vật, phương tiện không bị giới hạn bởi mức tiền phạt
tiền tối đa của chức danh Giám đốc Công an cấp tỉnh, Cục trưởng Cục điều tra
chống buôn lậu, Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan thuộc Tổng cục Hải quan,
Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Cục
trưởng Cục Quản lý thị trường cấp tỉnh, Cục trưởng CụcNghiệp vụ quản lý thị
trường của các Nghị định số 45/2019/NĐ-CP, Nghị định số 46/2019/NĐ-CP, Nghị định
số131/2013/NĐ-CP, Nghị định số 38/2021/NĐ-CP;
+
Quy định cụ thể thẩm quyền của Công an nhân dân tại Nghị định số 45/2019/NĐ-CP,
Nghị định số 46/2019/NĐ-CP;
+
Bổ sung chức danh Tổ trưởng thuộc Chi cục Hải quan; Tổ trưởng thuộc Đội Kiểm
soát thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Đội
trưởng Đội Điều tra hình sự, Đội trưởng Đội kiểm soát chống buôn lậu hàng giả và
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ thuộc Cục Điều tra chống buôn lậu; Chi cục trưởng
Chi cục Kiểm tra sau thông quan thuộc Cục Kiểm tra sau thông quan tại Nghị định
số 131/2013/NĐ-CP, Nghị định số 38/2021/NĐ-CP;
+
Sửa đổi, bổ sung thẩm quyền phạt tiền tối đa của Đồn trưởng Đồn biên phòng, Hải
đội trưởng Hải đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy Biên phòng Cửa khẩu
cảng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc Công an tỉnh tại Nghị định số
45/2019/NĐ-CP, Nghị định số 46/2019/NĐ-CP, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP;
+
Sửa đổi, bổ sung nội dung thẩm quyền của Bộ đội biên phòng và Quản lý thị trường
tại Nghị định số 45/2019/NĐ-CP, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP;
+
Sửa đổi, bổ sung hành vi vi phạm liên quan đến quảng cáo xuyên biên giới, hành
vi về quảng cáo mỹ phẩm do có sự thay đổi về pháp luật nội dung (Nghị định số
70/2021/NĐ-CP ngày 21/7/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 181/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của Luật Quảng cáo);
+
Sửa đổi, bổ sung về phân định thẩm quyền đối với Nghị định số 38/2021/NĐ-CP;
+
Bãi bỏ hành vi và thay thế cụm từ bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật nội
dung tại Nghị định số 45/2019/NĐ-CP và Nghị định số 38/2021/NĐ-CP.
19. Nghị định số
130/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em
a) Hiệu lực thi hành:
Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022;
Nghị định số 144/2013/NĐ-CPngày 29 tháng 10 năm
2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã
hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em hết hiệu lực kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực
thi hành.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
Việc ban hành Nghị định
để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật (Luật
Trẻ em năm 2016, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành
chính năm 2020; Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định
về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội,…) và phù hợp với
chức năng quản lý nhà nước về lao động, người có công và xã hội của ngành Lao
động - Thương binh và Xã hội.
c) Nội dung chủ
yếu: Nghị định gồm 4
chương, 48 điều, cụ thể như sau:
* Phạm vi điều
chỉnh: Nghị định này
quy định hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp
khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền lập biên
bản, thẩm quyền xử phạt và thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả theo
từng chức danh đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ
giúp xã hội và trẻ em. Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ,
trợ giúp xã hội và trẻ em không quy định tại Nghị định này thì áp dụng theo quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước có liên
quan.
*
Đối tượng áp dụng gồm:
- Đối tượng bị xử phạt vi
phạm hành chính là cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính theo quy định
tại Nghị định này xảy ra trong phạm vi lãnh thổ, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
trên tàu bay mang quốc tịch Việt Nam, tàu biển mang cờ quốc tịch Việt Nam, trừ
trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác, gồm:
+ Cá nhân có hành vi vi
phạm hành chính;
+ Tổ chức có hành
vi vi phạm hành chính: các loại hình cơ sở trợ giúp xã hội; cơ sở cung cấp dịch
vụ bảo vệ trẻ em; cơ sở tôn giáo; tổ chức dịch vụ chi trả; tổ chức chính trị xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; doanh
nghiệp, hợp tác xã, cơ
sở sản xuất kinh doanh; cơ sở văn hóa, vui chơi, giải trí và thể thao; cơ sở
khám chữa bệnh; cơ sở giáo dục; cơ sở giáo dục nghề nghiệp và các cơ sở dịch vụ
khác.
- Người có thẩm
quyền lập biên bản.
- Người có thẩm
quyền xử phạt.
- Cá nhân, tổ chức
khác có liên quan đến việc xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị
định này.
*Một số điểm mới của
Nghị định (so với Nghị định 144/2013/NĐ-CP trước đây):
-
Thứ nhất, điều chỉnh tên gọi của Nghị định là "Nghị định quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em".
- Thứ hai, sửa đổi, bổ
sung quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và biện pháp khắc
phục hậu quả:
Chương II, Mục 1: bỏ một
số quy định trùng lắp với quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) gồm: hành vi chiếm đoạt tiền, hàng cứu trợ; hành vi giả mạo hồ
sơ, giấy tờ để hưởng chính sách ưu đãi về miễn, giảm thuế, cho vay vốn; giả mạo
hồ sơ, giấy tờ để được cấp giấy xác nhận mức độ khuyết tật; xâm phạm thân thể,
gây tổn hại về sức khỏe đối với trẻ em; ép buộc người cao tuổi lao động,… và sửa
đổi, điều chỉnh một số hành vi vi phạm, mức phạt tiền, hình thức xử phạt bổ sung
và biện pháp khắc phục hậu quả để phù hợp với các Nghị định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực khác có liên quan và tính chất, mức độ hành vi vi phạm.
Chương II, Mục 2: bổ sung
quy định về cấm bạo lực với trẻ em; cấm lạm dụng, bóc lột trẻ em; cấm sử dụng,
rủ rê, xúi giục, kích động, lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc trẻ em thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác; về quyền bày
tỏ ý kiến, nguyện vọng và tham gia vào các vấn đề về trẻ em; hỗ trợ, can thiệp
đối với trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại, bạo lực, bóc lột, bỏ rơi
và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; cấm công bố, tiết lộ thông tin về đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em; cung cấp các sản phẩm, dịch vụ văn hóa,
thông tin, truyền thông có nội dung ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của
trẻ em; trách nhiệm bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng; sửa đổi, điều chỉnh một
số hành vi vi phạm, mức phạt tiền và biện pháp khắc phục hậu quả để phù hợp với
các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khác có liên quan và
tính chất, mức độ hành vi vi phạm.
-
Thứ ba, bổ sung quy định về đối tượng áp dụng; hình
thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả; thẩm quyền lập biên bản; phân định
thẩm quyền xử phạt; bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội
biên phòng, Cảnh sát biển, Cảng vụ hàng hải, Cảng vụ hàng không, Cảng vụ đường
thủy nội địa, Thanh tra Tư pháp, Thanh tra Nội vụ, Thanh tra Xây dựng; sửa đổi,
bổ sung quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Quản lý thị trường
và Công an nhân dân.
-
Thứ tư, rà soát, hoàn thiện Nghị định để phù hợp với
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020:
quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính; về thẩm quyền tịch thu tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính; việc thi hành các hình thức xử phạt hành
chính, các biện pháp khắc phục hậu quả;… trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội
và trẻ em./.
20. Nghị định số
134/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2019 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng
a) Hiệu lực thi
hành:
Nghị định này có hiệu lực từ ngày 15 tháng 02 năm 2022.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
Ngày 01/7/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2019/NĐ -
CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật phòng, chống tham
nhũng. Tuy nhiên, qua rà soát, Thanh tra Chính phủ và Văn phòng Chính phủ đã
phát hiện một số sai sót về kỹ thuật nên Thanh tra Chính phủ đã có Văn bản số
1107/TTCP-PC ngày 08/7/2019 báo cáo và xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ về việc
đính chính 05 nội dung của Nghị định và ủy quyền cho Tổng Thanh tra Chính phủ
thay mặt Chính phủ ký văn bản đính chính. Ngày 14/7/2019, Thủ tướng Chính phủ đã
có ý kiến đồng ý với đề nghị của Thanh tra Chính phủ tại Phiếu trình số
7628/PTr-V.I ngày 9/7/2019 của Văn phòng Chính phủ. Trên cơ sở đó, ngày
22/7/2019, Tổng Thanh tra Chính phủ thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ ký Văn bản
số 298/CP-V.I về việc đính chính Nghị định số 59/2019/NĐ-CP. Trong quá trình
giám sát, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái phản ánh ý kiến của cử tri cho
rằng, việc đính chính Nghị định số 59/2019/ NĐ-CP chỉ có 01 mục là đính chính về
lỗi chính tả, còn 04 mục là đính chính sai sót về nội dung là chưa phù hợp. Do
đó, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái đề nghị cần phải sửa đổi, bổ sung bằng
một văn bản quy phạm pháp luật khác. Qua công tác giám sát và trả lời kiến nghị
của cử tri, Ban dân nguyện của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng cho rằng việc đính
chính nêu trên là không phù hợp nên đề nghị Chính phủ thu hồi Văn bản số 298/CP-
V.I và ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
59/2019/NĐ-CP. Qua trình nghiên cứu và rà soát Nghị định số 59/2019/NĐ-CP, Thanh
tra Chính phủ nhận thấy, ngoài vấn đề nêu trên, quá trình triển khai thực hiện
Nghị định cũng phát sinh một số hạn chế, bất cập như quy định việc Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tự đánh giá kết
quả công tác phòng, chống tham nhũng nhưng không quy định cơ quan thẩm định kết
quả đánh giá có thể dẫn tới việc đánh giá thiếu chính xác, khách quan và mang
tính hình thức. Ngoài ra, quá trình xây dựng Nghị định Bộ Tư pháp, Bộ Công an
cũng chỉ ra một số quy định của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP chưa phù hợp với Luật
Phòng, chống tham nhũng cần được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Vì vậy, việc xây
dựng và ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
59/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng,
chống tham nhũng là cần thiết.
c) Nội dung chủ
yếu:
Nghị định số 134/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số nội dung, cụ thể như sau:
- Tại điểm
i khoản 1 Điều 1 Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định: “Điều 94 về xử lý hành vi
vi phạm khác về phòng, chống tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị”. Nghị
định số 134/2021/NĐ-CP sửa đổi lại như sau: “Điều 94 về xử lý hành vi khác vi
phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị”. Việc
sửa đổi này để đảm bảo thống nhất với tên Điều 94 của Luật Phòng , chống tham
nhũng.
-Khoản 3
Điều 21 Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định: “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước Thủ tướng
Chính phủ kết quả đánh giá ngành, mình và gửi kết quả đánh giá cho Thanh tra
Chính phủ để tổng hợp” được sửa đổi là: “ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ
về kết quả đánh giá của ngành, cấp mình và gửi kết quả đánh giá để Thanh tra
Chính phủ rà soát, đánh giá và tổng hợp. Quy định này nhằm làm rõ trách nhiệm
của Thanh tra Chính phủ trong việc thẩm định kết quả tự đánh giá công tác phòng,
chống tham nhũng của các bộ ngành, địa phương trước khi tổng hợp, báo cáo Chính
phủ, Quốc hội nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước, phù hợp với
thực tiễn và đề cao trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong việc tự đánh
giá công tác phòng, chống tham nhũng.
- Sửa lỗi
chính tả cụm từ “quyền han” thành “quyền hạn” tại khoản 1 Điều 31 của Nghị định
số 59/2019/NP-CP.
- Tại khoản
2 Điều 34 của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định: “Trong thời hạn 05 ngày, kể
từ ngày có căn cứ được quy định tại khoản 1 Điều này thì người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị quyết định hoặc đề nghị người có thẩm quyền quản lý người có
chức vụ, quyền hạn quyết định đình chỉ công tác thực hiện nhiệm vụ, công vụ đối
với người có chức vụ, quyền hạn”. Khoản 4 Điều 1 Nghị định số 134/2021/NĐ-CP sửa
đổi như sau: “Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có căn cứ được quy định tại
khoản 1 Điều này thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị quyết định hoặc đề
nghị người có thẩm quyền quản lý người có chức vụ, quyền hạn quyết định đình chỉ
việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ đối với người có chức vụ, quyền hạn. ”Việc sửa
đổi, thay cụm từ “công tác ” bằng từ “việc” để đảm bảo chính xác về mặt ngữ
nghĩa mà không làm thay đổi nội dung của điều khoản.
- Tại Điều
52 của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định: “Người bị tạm đình chỉ công tác, tạm
thời chuyển vị trí công tác khác được trở lại vị trí công tác ban đầu sau khi cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền kết luận người đó không có hành vi tham nhũng hoặc
hết thời gian tạm đình chỉ, tạm thời chuyển vị trí công tác khác được xin lỗi,
cải chính công khai và được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong
việc ra quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác
theo quy định của pháp luật.
Khoản 8
Điều 1 Nghị định số 134/2021/NĐ-CP sửa đổi Điều 52 như sau: “Người bị tạm đình
chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác được trở lại vị trí công tác
ban đầu sau khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kết luận người đó không có hành
vi tham nhũng; được xin lỗi, cải chính công khai và được bồi thường thiệt hại do
hành vi trái pháp luật trong việc ra quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời
chuyển vị trí công tác khác theo quy định của pháp luật”. Cụ thể là đã lược bỏ
cụm từ “hoặc không có kết luận về hành vi tham nhũng” ở tên gọi của Điều 52.
Đồng thời , để bảo đảm thống nhất giữa các điều luật có điều chỉnh về cùng một
nội dung, tại khoản 5, khoản 6 và khoản 7 Nghị định số 134/2021/NĐ-CP cũng sửa
đổi, bổ sung quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 44, điểm d, khoản 1 Điều 45 và
khoản 1 Điều 48 Nghị định số 59/2019/NĐ-CP.
- Tại điểm
d khoản 2 Điều 76 của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định: “Vụ việc tham nhũng
đặc biệt nghiêm trọng là vụ việc mà người có hành vi tham nhũng bị xử lý bằng
hình thức phạt tù từ trên 05 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”.
Khoản 9
Điều 1 Nghị định số 134/2021/NĐ-CP sửa đổi như sau: “Vụ việc tham nhũng đặc biệt
nghiêm trọng là vụ việc mà người có hành vi tham nhũng bị xử lý bằng hình thức
phạt tù từ trên 15 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Việc sửa đổi này
để đảm bảo sự thống nhất, chính xác với khung hình phạt theo phân loại tội phạm
đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại điểm d khoản 1 Điều 9 của Bộ
luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Khoản 10
và khoản 11 Điều 1 Nghị định số 134/2021/NĐ-CP sửa đổi tiểu mục 1, Mục IX và
tiểu mục 1, Mục X Phần B Phụ lục Danh mục vị trí công tác phải định kỳ chuyển
đổi cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Theo đó, chuyển nội dung “Cấp giấy cho thuê
đất, giao đất” về Bộ Tài nguyên và Môi trường. Như vậy , hai tiểu mục nêu trên
được sửa đổi như sau:
“1. Cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cho thuê đất, giao đất, quyền sở hữu, sử dụng
tài sản gắn liền với đất”
“1. Quản
lý động vật thuộc danh mục quý hiếm”.
21. Nghị định số
136/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 27/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Luật Đo đạc và bản đồ
a) Hiệu lực thi
hành:
Nghị định này có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 15 tháng 02 năm 2022.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
- Sự cần
thiết ban hành
Luật Đo đạc
và bản đồ được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp
thứ 5 thông qua và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2019. Theo đó, ngày 13
tháng 3 năm 2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 27/2019/NĐ-CP quy định chi
tiết một số điều của Luật Đo đạc và bản đồ. Trong thời gian qua, việc thực hiện
quy định của Luật Đo đạc và bản đồ, Nghị định số 27/2019/NĐ-CP đã đảm bảo thống
nhất về đo đạc và bản đồ trong phạm vi cả nước, tránh chồng chéo trong công tác
quản lý và triển khai thực hiện các nhiệm vụ về đo đạc và bản đồ từ trung ương
đến địa phương và giữa các bộ, ngành. Việc tăng cường phân cấp trách nhiệm quản
lý và tổ chức triển khai hoạt động đo đạc và bản đồ cho địa phương đã tạo điều
kiện cho nhiều tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động đo đạc và bản đồ.Việc cấp
chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao trách
nhiệm của mỗi cá nhân có quyền đại diện theo pháp luật tham gia các hoạt động đo
đạc và bản đồ. Tuy nhiên, qua hơn 2 năm triển khai thực hiện Nghị định số
27/2019/NĐ-CP đã bộc lộ những tồn tại, vướng mắc cần xem xét sửa đổi, bổ sung,
cụ thể như sau:
+
Thông tin, dữ liệu, sản
phẩm đo đạc và bản đồ theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 27/2019/NĐ-CP được
cung cấp, khai thác, sử dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới 2 dạng là: bản sao
hoặc xuất bản phẩm. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay nhu cầu cung cấp thông tin,
dữ liệu, sản phẩm đo đạc và bản đồ dưới dạng trực tuyến đang dần trở nên phổ
biến. Các tổ chức, cá nhân có nhu cầu được cung cấp thông tin, dữ liệu thu nhận
từ mạng lưới trạm định vị vệ tinh quốc gia, dữ liệu nền địa lý quốc gia ... dưới
dạng trực tuyến để đảm bảo được cung cấp theo thời gian thực. Hình thức sử dụng
dữ liệu trực tuyến là một hình thức sử dụng phổ biến, chính xác, kịp thời, tiện
lợi, giảm chi phí, đặc biệt phù hợp với định hướng chuyển đổi số
cần được quy định để đảm bảo việc cung cấp
thông tin dữ liệu đo đạc và
bản đồ cho các tổ chức, cá nhân đáp ứng yêu cầu của xã hội.
+
Việc phân cấp trách
nhiệm quản lý và tổ chức triển khai hoạt động đo đạc và bản đồ cho địa phương đã
tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động đo đạc và bản đồ. Các tổ
chức hoạt động đo đạc và bản đồ đã phát triển nhiều về số lượng, phong phú, đa
dạng về qui mô cũng như nội dung hoạt động đo đạc bản đồ. Tuy nhiên, trong thời
gian vừa qua, một số tổ chức đề nghị cấp giấy phép gặp khó khăn trong việc kê
khai, lập hồ sơ đề nghị cấp phép khi yêu cầu cấp phép thông qua dịch vụ công
trực tuyến mức độ 3. Mặt khác, để thực hiện chương trình cải cách hành chính,
nâng cao công tác quản lý nhà nước về hoạt động đo đạc và bản đồ gắn kết với
việc xây dựng Chính phủ điện tử và tăng cường xây dựng dịch vụ công trực tuyến
mức độ 4, cần có quy định cụ thể hơn về danh mục nội dung hoạt động đo đạc và
bản đồ, nhân lực kỹ thuật, phương tiện, thiết bị công nghệ đo đạc và bản đồ tạo
điều kiện thuận lợi cho các tổ chức khi đề nghị cấp phép hoạt động đo đạc và bản
đồ; báo cáo tình hình hoạt động đo đạc và bản đồ bằng phương thức trực tuyến.
+
Theo quy định tại Điều
44 Nghị định số 27/2019/NĐ-CP, việc sát hạch và cấp chứng chỉ hành nghề được
tiến hành đồng thời và không quá 3 lần trong 1 năm. Điều này dẫn tới việc một số
cá nhân có nhu cầu cấp chứng chỉ bị hạn chế về thời gian đăng ký đề nghị xét
cấp. Do vậy, cần xem xét, nghiên cứu để việc cấp chứng chỉ hành nghề thực hiện
thường xuyên trong năm. Mặt khác, cá nhân tham gia hoạt động đo đạc và bản đồ
thường phải thực hiện các nhiệm vụ trên phạm vi cả nước nên gặp khó khăn trong
việc sát hạch, đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ. Vì vậy, cần tạo
điều kiện thuận lợi cho các cá nhân tham gia sát hạch, đề nghị cấp chứng chỉ
hành nghề đo đạc và bản đồ
nơi công tác,
cụ thể hóa thành phần hồ sơ, thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ
điện tử thông qua dịch vụ công trực tuyến mức độ 4.
Mặt
khác, trong thời gian qua, Chính phủ ban hành
Nghị quyết số 68/NQ-CP
ngày 12 tháng 5 năm 2020 của
Chính phủ ban hành về Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến
hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025;Nghị
quyết số 17/NQ-CP ngày07tháng3năm2019 về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng
tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019-2020, định hướng đến năm 2025
yêu cầu
tiếp tục rà soát nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính, các quy định liên quan
đến hoạt động kinh doanh, phát triển Chính phủ điện tử. Do đó, để đảm bảo thi
hành Luật Đo đạc và bản đồ và Nghị định số 27/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 3 năm
2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đo đạc và bản đồtrong
hoạt động đo đạc và bản đồ đặt ra nhiệm vụ cần thiết sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 27/2019/NĐ-CP để có cơ sở pháp lý giải quyết các yêu cầu
trên của thực tiễn và đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về đo đạc và
bản đồ trong giai đoạn hiện nay.
- Mục đích ban hành
+
Bổ sung hình thức cung
cấp thông tin, dữ liệu, sản phẩm dạng trực tuyến để phù hợp với thực tế nhu cầu
sử dụng và khả năng đáp ứng của dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 về cung cấp
thông tin, dữ liệu, sản phẩm đo đạc và bản đồ, phục vụ xây dựng Chính phủ điện
tử, hướng tới Chính phủ
số.
+
Tăng cường áp dụng công
nghệ thông tin trong việc cải cách thủ tục hành chính cấp giấy phép hoạt động đo
đạc và bản đồ cho các tổ chức, cấp chứng chỉ hành nghề cho các cá nhân tham gia
các hoạt động đo đạc bản đồ nhằm hướng tới việc cấp phép, cấp chứng chỉ hành
nghề đo đạc và bản đồ điện tử được thực hiện qua dịch vụ công trực tuyến mức độ
4; báo cáo tình hình hoạt động đo đạc và bản đồ bằng phương thức trực tuyến tạo
điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân và nâng cao công tác quản lý nhà nước
về hoạt động đo đạc và bản đồ.
c) Nội dung chủ
yếu: Nghị định
136/2021/NĐ-CP gồm 4 điều, cụ thể:
- Điều 1: Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số
27/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của Luật Đo đạc và bản đồ.
- Điều 2: Hiệu lực thi
hành.
- Điều 3: Điều khoản
chuyển tiếp.
- Điều 4: Trách nhiệm thi
hành.
Ban hành kèm theo Nghị
định Phụ lục 15 Biểu mẫu về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
27/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của Luật Đo đạc và bản đồ.
22. Nghị định số
137/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực kinh doanh đặt cược và trò chơi có thưởng
a) Hiệu lực thi
hành: Nghị định này
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
Nghị định này bãi bỏ một
phần văn bản quy phạm pháp luật sau đây: a) Chương VII Nghị định
số06/2017/NĐ-CPngày 24 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ về kinh doanh đặt cược
đua ngựa, đua chó và bóng đá quốc tế; b) Chương VII Nghị định
số03/2017/NĐ-CPngày 16 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ về kinh doanh casino;
c) Chương VII Nghị định số86/2013/NĐ-CPngày 29 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ
về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài; d) Khoản 13,
khoản 14 và khoản 15 Điều 1 Nghị định số175/2016/NĐ-CPngày 30 tháng 12 năm
2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều quy định tại Nghị định
số86/2013/NĐ-CPngày 29 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ về kinh doanh trò chơi
điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài.
b) Sự cần thiết, mục
đích ban hành:Trước
khi Nghị định số 137/2021/NĐ-CP được ban hành, pháp lý về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi có thưởng (bao gồm đặt cược, casino và
trò chơi điện tử có thưởng) được quy định tại 03 Nghị định chuyên ngành[2].
Năm 2020, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính
(Luật XLVPHC). Căn cứ nhiệm vụ được giao tại Luật, Chính phủ ban hành Nghị định
số 137/2021/NĐ-CP nhằm:
- Đồng bộ pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi có thưởng với Luật
XLVPHC và pháp luật có liên quan.
- Rà soát, hoàn thiện quy
định về mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực đặt cược và trò
chơi có thưởng nhằm phản ánh đúng tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm của từng
hành vi vi phạm trong từng lĩnh vực theo đúng nguyên tắc xử phạt vi phạm hành
chính của Luật XLVPHC và đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa các hành vi vi phạm,
góp phần duy trì trật tự, kỷ cương, nâng cao nhận thức của người chơi và doanh
nghiệp trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi có thưởng.
c) Nội dung chủ
yếu:Nghị định số
137/2021/NĐ-CP quy định về hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục
hậu quả trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi có thưởng. Trong đó, Nghị định đã kế
thừa các nội dung về xử phạt vi phạm hành chính còn phù hợp của 03 Nghị định
chuyên ngành về: các quy định chung về xử lý vi phạm, các hình thức xử phạt, mức
phạt tiền tối đa; các biện pháp khắc phục hậu quả; lập biên bản hành chính và
thủ tục xử phạt vi phạm hành chính và kế thừa toàn bộ 22 nhóm hành vi vi phạm
hành chính.
Bên cạnh các nội dung kế
thừa, Nghị định số 137/2021/NĐ-CP đã bổ sung, hoàn thiện các nội dung sau:
- Sửa đổi, bổ sung các
nội dung phù hợp với quy định của Luật XLVPHC 2020, cụ thể:
+ Quy định thời hiệu xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi có thưởng là 01 năm;
thời điểm để xác định thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính và quy định cụ thể
thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm để xác định thời hiệu xử phạt đối với một số
hành vi vi phạm;
+ Bổ sung các chức danh
của lực lượng công an nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm
quyền xử phạt trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi có thưởng. Đồng thời, Nghị
định sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền xử phạt bao gồm mức phạt tiền, thẩm
quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, thẩm quyền tước quyền
sử dụng Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh có thời hạn, thẩm quyền áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả của từng chức danh có thẩm quyền xử phạt trong lĩnh
vực đặt cược và trò chơi có thưởng. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định này đã
đồng bộ pháp lý xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đặt cược và trò chơi
có thưởng đồng bộ với quy định của Luật XLVPHC hiện hành, đảm bảo công khai, rõ
ràng, thống nhất trong triển khai thực hiện.
- Sửa đổi, bổ sung các
quy định phù hợp với hệ thống pháp luật có liên quan:
+ Nghị định đã bổ sung
quy định về hành vi vi phạm và hoàn thiện mức xử phạt đối với các hành vi vi vi
phạm quy định phòng, chống rửa tiền và phòng, chống khủng bố trong lĩnh vực đặt
cược và trò chơi có thưởng để phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành về
phòng chống rửa tiền và phòng chống tài trợ khủng bố và pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong các lĩnh vực này;
+ Bổ sung quy định về
hành vi vi phạm và mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm về quảng cáo, sửa đổi
mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm quy định về giảm giá và khuyến mại để đồng
bộ với pháp luật về quảng cáo và thương mại.
- Rà soát, sửa đổi mức
phạt tiền của các hành vi vi phạm phù hợp tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm của
từng hành vi vi phạm đối với từng lĩnh vực. Cụ thể:
+ Đồng bộ mức phạt tiền
và hình thức xử phạt đối với các hành vi vi phạm có tính chất, mức độ vi phạm
giống nhau;
+ Nâng mức phạt tiền và
quy định hình thức tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh có
thời hạn đối với các hành vi vi phạm có tính chất nghiêm trọng, mức độ vi phạm
cao liên quan đến điều kiện đầu tư, kinh doanh và các hành vi bị nghiêm cấm;
+ Phân hóa mức phạt tiền
đối với một số hành vi vi phạm trong kinh doanh đặt cược và casino cao hơn trong
kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng để phù hợp với tính chất, mức độ tác động
của hành vi vi phạm trong từng lĩnh vực. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định này
nhằm đảm bảo nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất,
mức độ và hậu quả vi phạm của hành vi vi phạm.
23. Nghị định số
138/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định về quản lý, bảo
quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu và giấy phép,
chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ theo thủ tục hành chính
a) Hiệu lực thi hành:
Nghị
định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
Nghị định
này thay thế Nghị
định số 115/2013/NĐ-CP ngày
03 tháng 10 năm 2013 quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính và Nghị
định số31/2020/NĐ-CP ngày
05 tháng 3 năm 2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2013/NĐ-CP
ngày 03 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định về quản lý, bảo quản tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban
hành
Ngày 03/10/2013, Chính
phủ ban hành Nghị định số 115/2013/NĐ-CP quy định về quản lý, bảo quản tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính
(được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 31/2020/NĐ-CP ngày 03/5/2020), sau đây
viết gọn là Nghị định số 115/2013/NĐ-CP. Qua
08 năm triển khai thi hành Nghị định số 115/2013/NĐ-CP đã đạt được những
kết quả quan trọng trong công tác quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, ngăn chặn có
hiệu quả các hành vi vi phạm hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan
chức năng xác minh tình tiết của vụ vi phạm, trên cơ sở đó làm căn cứ quyết định
xử lý công minh, triệt để, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quyết định xử lý vi
phạm hành chính. Theo số liệu thống kê trong 08 năm, từ năm 2013 đến nay, cơ
quan chức năng đã tạm giữ 17.460.000 tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
trong đó, đã trả lại 4.056.000 tang vật, phương tiện cho chủ sở hữu; chuyển điều
tra, xác minh gần 190.000 tang vật, phương tiện; tiêu hủy 5.040.000 tang vật,
phương tiện và bán sung công quỹ nhà nước 5.065.000 tang vật, phương tiện, nộp
vào ngân sách nhà nước hơn 1.940 tỷ đồng (bao gồm số tiền là tang vật, phương
tiện vi phạm và số tiền thanh lý tang vật, phương tiện vi phạm).
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tiễn thi hành Nghị định số
115/2013/NĐ-CP đã phát sinh một số hạn chế, bất cập nhất định cần được sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn và tăng cường hơn nữa công tác quản lý
nhà nước về thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính, cụ thể như: Chưa quy
định cụ thể việc xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ khi
hết thời hạn tạm giữ; về điều kiện, trình tự, thủ tục đặt tiền bảo lãnh cũng cần
được quy định cụ thể hơn nữa để thuận tiện áp dụng; một số vấn đề thực tiễn đặt
ra khi cho phép tổ chức, cá nhân đặt tiền bảo lãnh cũng cần được hoàn thiện hơn
như khi đến thời hạn chấp hành quyết định xử phạt nhưng người vi phạm không đến
giải quyết thì số tiền đặt bảo lãnh được xử lý theo trình tự, thủ tục như thế
nào hoặc khi nào thì xác định trường hợp được đặt tiền bảo lãnh đã chấp hành
xong quyết định xử phạt; thời gian và số lần thông báo trên các phương tiện
thông tin đại chúng trong trường hợp đã hết thời hạn tạm giữ mà người vi phạm
không đến nhận còn dài và phải mất nhiều lần gây ảnh hưởng đến hiệu quả công tác
xử lý; đối với tang vật, phương tiện vi phạm có giá trị thấp hoặc không còn giá
trị sử dụng mà chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp không đến
nhận lại thì cần có quy định xử lý theo hướng rút gọn thủ tục bảo đảm nhanh
chóng, hiệu quả… Những hạn chế, bất cập nêu trên đã gây khó khăn, vướng mắc cho
các cơ quan, người có thẩm quyền trong quá trình tạm giữ, tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính cũng như chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác
xử lý vi phạm hành chính.
Ngày 13/11/2020, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2022, theo đó một số các quy định về tạm giữ, tịch thu tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính đã có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế hiện nay,
như: Bổ sung quy định về quản lý, bảo quản đối với giấy phép, chứng chỉ hành
nghề bị tạm giữ; bổ sung trách nhiệm quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện,
giấy phép chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ của người lập biên bản tạm giữ...
Do
đó, để bảo đảm cho việc tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy
phép, chứng chỉ hành nghề theo đúng quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính,
bảo đảm phù hợp với yêu cầu thực tiễn, góp phần đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả
và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm hành chính thì việc ban hành Nghị định quy
định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ,
tịch thu và giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ theo thủ tục hành chính để
thay thế Nghị định số 115/2013/NĐ-CP là cần thiết.
- Mục đích ban hành
+
Xây dựng Nghị định đảm bảo phù hợp với Luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi,
bổ sung năm 2020).
+
Khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành Nghị định số
115/2013/NĐ-CP và các quy định pháp luật khác có liên quan.
c) Nội dung chủ
yếu: Nghị
định gồm 3 Chương, 19 điều, với nội dung cụ thể như sau:
- Chương 1. Quy
định chung, bao gồm 05 điều, từ Điều 1 đến Điều 5 quy định về: Phạm vi vi điều
chỉnh; đối tượng áp dụng; nguyên tắc quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện bị
tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ; các hành vi bị
nghiêm cấm và kinh phí bảo đảm cho công tác quản lý, bảo quản tang vật, phương
tiện bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ.
- Chương 2. Quy
định về quản lý, bảo quản tang vật phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ,
tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ, bao gồm 12 điều, từ Điều 6
đến Điều 17 quy định về: Nơi tạm giữ tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu,
giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ; nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng
đầu cơ quan nơi quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu,
giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ; nhiệm vụ, quyền hạn của người quản
lý, bảo quản tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ
hành nghề bị tạm giữ; trách nhiệm trong quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện
bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ; quyền của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép,
chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ; nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có tang
vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm
giữ; tiếp nhận tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ
hành nghề bị tạm giữ; chế độ quản lý, bảo quản, giao, nhận tang vật, phương tiện
bị tạm giữ, tịch thu, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ; giao phương
tiện giao thông vi phạm hành chính cho tổ chức, cá nhân vi phạm giữ, bảo quản;
đặt tiền bảo lãnh phương tiện giao thông bị tạm giữ theo thủ tục hành chính; trả
lại tang vật, phương tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ hoặc chuyển
tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu; thu, nộp, quản lý, sử dụng chi phí
lưu kho, chi phí bến bãi, chi phí bảo quản tang vật, phương tiện bị tạm giữ; xử
lý tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề hết thời hạn tạm giữ.
- Chương 3.
Điều khoản thi hành, gồm 02 điều, từ Điều 18 đến Điều 19, quy định về hiệu lực
thi hành và trách nhiệm thi hành.
24. Nghị định số
139/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa
a) Hiệu lực thi
hành:
Nghị định có hiệu
lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022, thay thế Nghị định số 132/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 12 năm 2015 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
thủy nội địa.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban
hành Nghị định:
Nghị định
số 132/2015/NĐ-CP ngày
25/12/2015 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường thủy nội địa (sau đây viết là Nghị định
số
132/2015/NĐ-CP)
sau 05 năm triển khai thực hiện bên cạnh những kết quả đạt được đã bộc lộ một số
khó khăn, vướng mắc đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn và
các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, cụ thể như sau:
+
Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020 được Quốc hội thông qua ngày
13/11/2020, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/1/2022. Theo đó, tại Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020 có một số
nội dung liên quan trực tiếp đến Nghị định số 132/2015/NĐ-CP như tăng mức phạt
tiền thuộc thẩm quyền xử phạt của Giám đốc Cảng vụ Đường thủy nội địa từ
25.000.000 đồng lên 50.000.000 đồng, một số thuật ngữ đã được thay đổi như “tháo
dỡ” thay bằng
“phá dỡ”…
Đồng thời, Dự
thảo Nghị định thay thế Nghị định số 81/2013/NĐ-CP và Nghị định số 97/2017/NĐ-CP
đang được sửa đổi, bổ sung, trong đó có một số nội dung liên quan trực tiếp đến
Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đường thủy nội địa.
+
Nghị định số
132/2015/NĐ-CP trong quá trình triển khai thực hiện
cũng
bộc lộ một số hạn chế, bất cập như sau:
+
Mức tiền phạt được áp dụng trong Nghị định còn thấp, không còn phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, không đảm bảo tính răn đe, giáo dục;
+
Cách chia các nhóm phương tiện tại Nghị định chưa thống nhất, chưa được phù hợp
tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm;
+
Chưa có chế tài xử lý đối với
các
hành vi vi phạm (như không ghi hoặc ghi chép không đầy đủ Sổ nhật
ký hành trình, Sổ nhật ký máy; không có dấu hiệu chỉ dẫn, cảnh báo nơi nguy
hiểm, dễ cháy, dễ nổ và thuyền viên không biết sử dụng các trang thiết bị phòng
cháy, chữa cháy...).
+
Hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về nội dung là cơ sở ban hành Nghị định quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa được sửa đổi, bổ sung
thay thế nên
cần điều chỉnh các
hành vi quy định tại Nghị định số 132/2015/NĐ-CP cho phù hợp:
+
Nghị định số 128/2018/NĐ-CP ngày 24/9/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung các
Nghị định quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực đường thủy nội
địa (gồm: Nghị định số 110/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014; Nghị định số
78/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016; Nghị định số 24/2015/NĐ-CP ngày 27/02/2015), trong
đó, nhiều nội dung liên quan đến các quy định tại Nghị định số 132/2015/NĐ-CP
như quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đóng mới, hoán cải, sửa chữa, phục
hồi phương tiện thủy nội địa, điều kiện kinh doanh vận tải thủy nội địa;
+
Nghị định số 159/2018/NĐ-CP
ngày 28/11/2018 của Chính phủ về quản lý hoạt động nạo vét trong vùng nước cảng
biển và vùng nước đường thủy nội địa, Nghị định 48/2019/NĐ-CP ngày 05/6/2019
quyđịnhvề quản lý hoạt động của phương tiện phục vụ vui chơi, giải trí dưới
nước, trong đó có nhiều hành vi liên quan đến hoạt động nạo vét, phương tiện
phục vụ vui chơi, giải trí dưới nước mà chưa được quy định tại Nghị định số
132/2015/NĐ-CP;
+Luật
phòng, chống tác hại của rượu, bia năm 2019 quy định cấm: “Thuyền viên, người
lái phương tiện đang làm việc trên phương tiện mà trong máu hoặc hơi thở có nồng
độ cồn hoặc có các chất kích thích khác mà luật cấm sử dụng”.Vì
vậy, cần điều chỉnh các hành vi quy định tại Nghị định số 132/2015/NĐ-CP cho phù
hợp.
+
Nghị định số 08/2021/NĐ-CP ngày 28/01/2021 của Chính phủ quy định về quản lý
hoạt động đường thủy nội địa, trong đó, nhiều nội dung quy định về điều kiện,
trách nhiệm của tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, xây dựng, khai thác giao thông
vận tải ĐTNĐ đã được thay đổi.
+
Một số Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực
chuyên ngành có liên quan đến hoạt động giao thông đường thủy nội địa có sự bổ
sung, điều chỉnh hành vi và mức xử phạt, đòi hỏi Nghị định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa cần có sự cập nhật, điều
chỉnh tương ứng để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật như Nghị định số 142/2017/NĐ-CP ngày 11/12/2017 của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải; Nghị định số
36/2020/NĐ-CP ngày 24/3/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản; Nghị định số 23/2020/NĐ-CP ngày
24/2/2020 của Chính phủ quy định về quản lý cát, sỏi lòng sông và bảo vệ lòng,
bờ bãi sông…
Xuất phát từ
những nội dung nói trên, việc xây dựng Nghị định quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đường thủy nội địa để thay thế Nghị định số
132/2015/NĐ-CP là cần thiết.
- Mục đích ban hành
Nghị định:
Việc xây
dựng Nghị định nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giao thông
đường thủy nội địa, bảo đảm trật tự, an ninh, an toàn giao thông, thúc đẩy phát
triển vận tải thủy. Đồng
thời, khắc
phục những vướng mắc, bất cập trong tổ chức triển khai
Nghị định quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa,
góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính nói chung và pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa
nói riêng.
c) Nội dung chủ
yếu: Nghị
định bao
gồm 05 Chương và
59
Điều, cụ thể:
+
Chương I. Quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 4) gồm các quy định chung về phạm
vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, thời hiệu, hình thức xử phạt vi phạm hành
chính, các biện pháp khắc phục hậu quả và áp dụng mức phạt tiền trong xử phạt
hành chính.
+
Chương II. Quy định về các hành vi vi phạm, hình thức xử phạt và biện pháp khắc
phục hậu quả (từ Điều 5 đến Điều
41),
trong đó, Nghị định
chia các hành vi vi phạm thành 7 nhóm, tương đương với 7 mục của Chương II bao
gồm: Vi phạm quy định về xây dựng, quản lý, khai thác, bảo vệ kết cấu hạ tầng và
tổ chức các hoạt động
trên đường thủy nội địa
(từ Điều 5 đến Điều 14); vi phạm quy định về hoạt động của phương tiện (từ Điều
15 đến Điều 19); vi phạm quy định về hoạt động của thuyền viên, người lái phương
tiện, chủ phương tiện (từ Điều 20 đến Điều 24); vi phạm quy tắc giao thông và
quy định về tín hiệu của phương tiện (từ Điều 25 đến Điều 26); vi phạm quy định
về quản lý, khai thác cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu (từ Điều 27 đến Điều
31);
vi phạm quy định về vận tải đường thủy nội địa (từ Điều
32
đến Điều 38);
vi phạm quy định về hoa tiêuvà các quy định đối với hoạt động thanh tra, kiểm
tra trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa (từ Điều 39
đến Điều 41).
+
Chương III. Quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện
pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa (từ Điều
42
đến Điều 50).
+
Chương IV. Quy định về tạm giữ phương tiện, giấy tờ, xác định phương tiện không
đăng ký, đăng kiểm, chế độ thông tin và sử dụng hình ảnh, thiết bị để xử phạt
(từ Điều 51
đến Điều 56).
+
Chương V. Điều khoản thi hành (từ Điều 57
đến Điều 59).
Phạm vi điều
chỉnh: Nghị định này
quy định về
hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục
hậu quả và thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa; Các hành vi vi
phạm về hoạt động của phương tiện thủy nội địa ngoài phạm vi luồng và vùng nước
chưa được tổ chức quản lý, khai thác giao thông vận tải, bao gồm: Vi phạm của
phương tiện thủy nội địa; thuyền viên, người lái phương tiện; quy tắc giao thông
và tín hiệu của phương tiện; vận tải đường thủy nội địa; tai nạn giao thông
đường thủy nội địa và tìm kiếm, cứu nạn giao thông đường thủy nội địa.
Các hành vi vi
phạm hành chính khác liên quan đến giao thông đường thủy nội địa không được quy
định tại Nghị định này thì áp dụng các quy định tại các Nghị định xử phạt vi
phạm hành chínhtrongcác lĩnh vực khác có liên quan.
Đối
tượng áp dụng:
Cá nhân, tổ chức
Việt Nam và nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường thủy nội địa tại Việt Nam; Người có thẩm quyền lập biên bản, thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính và tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc xử phạt vi
phạm hành chính; Hộ kinh doanh, hộ gia đình;
Các đơn vị phụ
thuộc doanh nghiệp (chi nhánh, văn phòng đại diện).
Nội dung cơ bản của
Nghị định:
-
Về các nhóm hành vi
vi phạm:Nghị
định có sự điều chỉnh lại các nhóm hành vi tương ứng với 07 mục tại Chương II
của Nghị định,
tăng 02 mục
so với Nghị định 132/2015/NĐ-CP. Việc điều chỉnh này nhằm chuyển các hành vi có
đối tượng bị xử phạt tương đồng nhau về cũng 01 nhóm, tạo thuận lợi trong quá
trình tra cứu, áp dụng,
cụ thể:
+ Mục I: Nhóm hành
vi vi phạm quy
định về xây dựng, quản lý, khai thác, bảo vệ kết cấu hạ tầng và
tổ chức các hoạt động trên đường thủy
nội địađã
được điều chỉnh theo hướng bổ sung
một số
hành vi và sửa đổi tên gọi
so với
Nghị định 132/2015/NĐ-CP
để
bao quát
tất cả các hành vi được quy định trong nhóm này.
+ Mục II: Nhóm
hành vi vi phạm quy định về điều kiện hoạt động của phương tiện
được sửa đổi tên so với
Nghị định
số
132/2015/NĐ-CP,
tại mục này
quy định các hành vi vi phạm về đăng ký, đăng kiểm của phương tiện, các điều
kiện về đảm bảo an toàn, niên hạn sử dụng của phương tiện, yêu cầu đối với hoạt
động đóng mới, hoán cải, sửa chữa phương tiện.
+ Mục III:
Nhóm hành vi vi phạm
quy định về điều kiện của thuyền viên, người lái phương tiện được điều chỉnh
theo hướng phân định cụ thể các hành vi vi phạm của của từng chủ thể nhằm đảm
bảo quy định chính xác nhất tới từng chủ thể vi phạm, tạo thuận lợi trong quá
trình tra cứu, áp dụng, đồng thời cũng góp phần nâng cáo ý thức trách nhiệm của
mỗi nhóm chủ thể (như
quy định vềcác
hành vi vi phạm của chủ phương tiện, người thuê phương tiện
tại
Điều 20;
các
hành vi vi phạm của thuyền
viên, người lái phương tiện
tại
Điều 21…).
Đồng thời, bổ
sung các hành vi vi phạm
về
trách nhiệm của thuyền viên, người lái phương tiện khi có tai nạn
giao thông đường thủy.
+
Mục IV: Nhóm hành vi vi phạm
quy tắc giao thông và quy định về tín hiệu của phương tiện được điều chỉnh để bổ
sung một số hành vi cho phù hợp với thực tiễn.
+
Mục V: Nhóm hành vi vi phạm
quy định về quản lý, khai thác cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu
(được
tách từ nhóm hành vi vi phạm quy định về khai thác cảng, bến thủy nội địa và vận
tải đường thủy nội địa tại Nghị định 132/2015/NĐ-CP và được chỉnh sửa, bổ sung
một số hành vi cho phù hợp).
+
Mục VI:
Nhóm hành vi vi phạm quy định về vận tải đường thủy nội địa
(được
tách từ nhóm hành vi vi phạm quy định về khai thác cảng, bến thủy nội địa và vận
tải đường thủy nội địa tại Nghị định 132/2015/NĐ-CP và được chỉnh sửa, bổ sung
một số hành vi cho phù hợp).
+
Mục VII: Nhóm hành vi vi phạm quy định về hoa tiêu và vi phạm quy định khi có
hoạt động thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa.
- Về mức xử phạt:
Nghị định đã tăng mức phạt và quy định cụ thể rõ hơn đối với các
hành vi trang bị không đủ
thiết bị, dụng cụ an toàn, dụng cụ cứu đắm, phòng cháy, chữa cháy, phòng ngừa ô
nhiễm môi trường, dụng cụ neo đậu, dụng cụ liên kết phương tiện;
hành vi không
trang bị hoặc trang bị không đủ áo phao hoặc dụng cụ nổi cứu sinh cá nhân;
hành vi không
mặc áo phao cứu sinh hoặc không mang dụng cụ nổi cứu sinh khi tham gia giao
thông trên phương tiện.
Đồng thời, ngoài việc tăng mức phạt đối với các hành vi này thì còn
quy định mức
xử phạt sẽ được
tính trên mỗi thiết
bị, dụng cụ,
mỗi áo phao, dụng cụ
nổi cứu sinh cá nhân để
đảm bảo tính răn đe.
Ngoài ra, Nghị
định cũng điều chỉnh lại hình thức và mức xử phạt bổ sung tại một số hành vi cho
phù hợp với quy định tại Điều 21, 25 và 26 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Về việc chia các
loại phương tiện:
Nghị định đã
điều chỉnh lại cách chia các nhóm phương tiện để áp dụng các mức xử phạt phù
hợp, tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi,
đảm bảo sự
thống nhất với Điều
24Luật Giao thông đường thủy nội địa và
các văn bản quy định về nội dung.
- Về việc bổ sung một số
hành vi vi phạm:
+ Bổ
sung các hành vi vi phạm về xây dựng kè, đập thủy lợi, cầu, bến phà, phong điện,
nhiệt điện, thủy điện, công trình vượt qua luồng trên không, dưới đáy luồng,
các hoạt động
khai thác tài nguyên, khoáng sản, khai thác, nuôi trồng thủy sản, hải sản, vui
chơi, giải trí, thể dục, thể thao tại Mục I (Điều
5, 13, 14)
của Nghị định vì hiện
nay do đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội ngày một phát triển, các hoạt động xây dựng,
khai thác
khoáng sản, vui chơi, giải trí, thể dục, thể thao và nhiều hoạt động khác liên
quan đến hoạt động giao thông đường thủy nội địa thường xuyên được tổ chức thực
hiện. Tại
Nghị định số 08/2021/NĐ-CP ngày 28/01/2021
quy định về quản lý hoạt động đường thủy nội địa,
Nghị định số 48/2019/NĐ-CP ngày 05/6/2019về
quản lý hoạt động của phương tiện phục vụ vui chơi, giải trí dưới nước…
đã có sự bổ sung các quy định điều chỉnh hoạt động này.Do
vậy, Nghị định cần thiết có sự nghiên cứu điều chỉnh và bổ sung các hành vi nhằm
đảm bảo sự phù hợp với thực tiễn xã hội và đảm bảo tương thích với hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành.
+ Bổ
sung một số hành vi như
"điều khiển phương tiện không tuân theo chỉ dẫn của báo hiệu đường thủy nội địa
hoặc chỉ dẫn của người điều tiết giao thông mà gây tai nạn giao thông, ùn tắc
giao thông hoặc làm hư hại đến các công trình trên đường thủy nội địa"
vào Mục IV (Điều 25), quy định
ở mức phạt
tiền cao nhất do thực tiễn gần đây xuất hiện nhiều trường hợp phương tiện tham
gia giao thông ĐTNĐ không tuân thủ đúng quy định chỉ dẫn, báo hiệu, gây đâm va,
dẫn tới hậu quả nghiêm trọng mà chưa có quy định xử phạt vi phạm nhằm răn đe,
phòng ngừa (như vụ đâm sập cầu Ghềnh, cầu An Thái…).
+ Bổ sungmột số
hành vi vi
phạm quy định về đầu tư,
khai thác khu
neo đậu tại Mục V (Điều
27) nhằm đảm
bảo sự tương thích đối với quy định tại Nghị định số 08/2021/NĐ-CP ngày
28/01/2021 và phù hợp
với thực tiễn
khai thác loại hình dịch vụ này. Đồng thời, quy định xử phạt vi phạm hành chính
đối với trường hợp khai thác cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu hết thời hạn
hoạt động hoặc tổ chức cho phương tiện vào neo đậu bốc xếp hàng hóa, đón, trả
hành khách tại các khu vực chưa được công bố, cấp phép hoạt động nhằm giảm thiểu
tình trạng cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu hoạt động không phép, phá vỡ quy
hoạch ngành, gây mất an toàn giao thông.
-
Về thẩm quyền xử phạt:
Nghị định
đã bổ sung 01 Điều (Điều 42) để phân định rõ thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính của các cơ quan có thẩm quyền xử phạt để
tránh chồng
chéo và tạo thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức dễ dàng tra cứu, áp dụng.Đồng
thời, Nghị định
có sự điều chỉnh lại hạn mức xử phạt đối với
một số
chức
danh có thẩm quyền xử phạt nhằm đảm bảo sự tương thích với Luật sửa đổi, bổ sung
Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020.
25. Nghị định số
140/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc
a) Hiệu lực thi
hành:
Nghị định này có
hiệu lực thi hành kể từ ngày ký (ngày 31 tháng 12 năm 2021).
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban
hành
+ Cơ sở pháp lý
Luật Xử lý vi phạm hành
chính năm 2012 (sau đây gọi là Luật số 15/2012/QH13) được Quốc hội khóa XIII, kỳ
họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2012 nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn liền
với tổ chức thi hành đã nâng cao hiệu quả, hiệu lực của Nhà nước trong quản lý
xã hội góp phần bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Ngày 13/11/2020 tại kỳ
họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông
qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012
(sau đây gọi là Luật số 67/2020), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022. Luật
số 67/2020 ban hành, trong đó, Phần thứ ba: Áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính, Luật số 67/2020 đã sửa đổi, bổ sung một phần nội dung của 15/30 điều,
Phần thứ tư: Các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính đã sửa
đổi, bổ sung một phần nội dung của 6/14 điều (trong đó, Quốc hội đã giao cho
Chính phủ quy định chi tiết Điều 131), còn có những vấn đề cần phải hướng dẫn cụ
thể, chi tiết, chính xác mang tính thống nhất trong tổ chức thi hành pháp luật
trong phạm vi toàn quốc, nhằm thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước về biện
pháp xử lý hành chính của Chính phủ được quy định tại các điều: Điều 92, Điều
94, Điều 97, Điều 98, Điều 99, Điều 100, Điều 101, Điều 102, Điều 107, Điều 110,
Điều 118, Điều 122, Điều 131, Điều 132.
Ngày 26/01/2021, Thủ
tướng Chính phủ có Quyết định số 126/QĐ-TTg ngày ban hành Kế hoạch triển khai
thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Bộ
Công an được Chính phủ giao chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan
nghiên cứu, xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định chế độ áp dụng,
thi hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục
bắt buộc (thay thế Nghị định số 02/2014/NĐ-CP ngày 10/01/2014, sau đây gọi tắt
là Nghị định số 02/2014).
-
Mục đích
+ Nhằm hướng dẫn cụ thể
một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính mà Luật giao cho Chính phủ quy
định chi tiết để tổ chức thi hành áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc.
+ Quy định rõ trách nhiệm
của các cơ quan, người có thẩm quyền trong việc lập hồ sơ; điều kiện trình tự
lập hồ sơ; chính sách hành chính đối với đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc.
+ Khắc phục những tồn
tại, phát sinh trong thực hiện các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính để
hoạt động thống nhất nâng cao hiệu lực, hiệu quả.
c) Nội dung chủ yếu:
Chương I: Phạm
vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; điều kiện bảo đảm cho việc
áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc; chuyển hồ
sơ của người bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt
buộc có dấu hiệu của tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự; truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội được thực hiện trước hoặc trong thời gian
chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc; quản lý
người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt
buộc trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính; giải quyết
trường hợp người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở
giáo dục bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp của người đó không đến đọc hồ sơ
và ghi chép các nội dung trong hồ sơ đề nghị; thi hành quyết định đưa vào trường
giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc; truy tìm người đã có quyết định đưa vào
trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc bỏ trốn; tạm thời đưa học sinh, trại
viên ra khỏi trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc theo yêu cầu của cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự; thi hành, quản lý người được hoãn, tạm đình chỉ chấp
hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.
Chương II gồm 2
mục:
Mục 1. Thủ tục
lập hồ sơ đề nghị, thi hành; chế độ quản lý, giáo dục; chế độ chính sách đối với
học sinh, gồm các điều quy định về: Hồ sơ, thủ tục đề nghị áp dụng biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng; hồ sơ, thủ tục đưa người đã có quyết định vào trường giáo
dưỡng; hồ sơ, thủ tục đề nghị xem xét, quyết định hoãn, giảm thời hạn, tạm đình
chỉ, miễn chấp hành toàn bộ hoặc phần thời gian còn lại tại trường giáo dưỡng;
chế độ quản lý học sinh; chế độ ăn, mặc và đồ dùng sinh hoạt của học sinh; chế
độ ở của học sinh; chế độ chăm sóc y tế đối với học sinh; chế độ học văn hóa,
học nghề và lao động của học sinh; quản lý, sử dụng kết quả lao động của trường
giáo dưỡng; chế độ sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, vui chơi giải trí của học sinh;
chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với học sinh; chế độ gặp thân nhân, liên lạc,
nhận tiền, quà của học sinh; giải quyết trường hợp học sinh chết; giải quyết
trường hợp học sinh có việc tang hoặc trường hợp khó khăn đặc biệt.
Mục 2. Thủ tục
lập hồ sơ đề nghị, thi hành; chế độ quản lý, giáo dục; chế độ chính sách đối với
trại viên, gồm các điều quy định về: Hồ sơ, thủ tục đề nghị áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; hồ sơ, thủ tục đưa người đã có quyết định vào
cơ sở giáo dục bắt buộc; hồ sơ, thủ tục đề nghị xem xét, quyết định hoãn, giảm
thời hạn, tạm đình chỉ, miễn chấp hành toàn bộ hoặc một phần thời gian còn lại
tại cơ sở giáo dục bắt buộc; chế độ quản lý trại viên; chế độ ăn đối với trại
viên; chế độ mặc và đồ dùng sinh hoạt của trại viên; chế độ ở của trại viên; chế
độ chăm sóc y tế đối với trại viên; chế độ học tập, sinh hoạt của trại viên; chế
độ lao động, học nghề của trại viên; quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở
giáo dục bắt buộc; chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với trại viên; chế độ thăm
gặp thân nhân, liên lạc, nhận tiền, quà của trại viên; giải quyết trường hợp
trại viên chết; giải quyết trường hợp trại viên có việc tang của thân nhân hoặc
trường hợp khó khăn đặc biệt.
Mục 3. Hết thời
hạn chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc; tái
hòa nhập cộng đồng, gồm các điều quy định về: Hết thời hạn chấp hành biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng; hết thời hạn chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc; chuẩn bị công tác tái hòa nhập cộng đồng; biện pháp tái hòa nhập
cộng đồng.
Chương III: Đề
nghị áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng; công bố quyết định áp dụng
biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng; thực hiện quản lý, giám sát, giáo dục
người được áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng; quyền và nghĩa vụ của
người chưa thành niên được áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng; hết
thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng.
Chương IV:
Trách nhiệm của Bộ Công an; trách nhiệm của Bộ Y tế; trách nhiệm của Bộ Giáo dục
và Đào tạo; trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; trách nhiệm của
Bộ Tài chính; trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Chương V: Biểu
mẫu sử dụng trong áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
và cơ sở giáo dục bắt buộc; hiệu lực thi hành; điều khoản chuyển tiếp.
Ban hành kèm
theo Nghị định Phụ lục các Biểu mẫu trong áp dụng biện pháp xử lý chính đưa vào
trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc.
26. Nghị định số
142/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định hình thức xử
phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành
chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm
thủ tục trục xuất
a) Hiệu lực thi
hành:Nghị
định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
Nghị định này
thay thế cácNghị định số 112/2013/NĐ-CPngày 02 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ
quy định về hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ, áp giải người theo
thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong
thời gian làm thủ tục trục xuất vàNghị định số 17/2016/NĐ-CPngày 17 tháng 3
năm 2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 112/2013/NĐ-CP ngày 02
tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định về hình thức xử phạt trục xuất, biện
pháp tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài
vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban
hành
Ngày 20/6/2012, tại Kỳ
họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Xử lý vi phạm hành chính, có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/7/2013 (sau đây gọi là Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012) . Tại Chương I, Chương II, Chương III (Phần 2) và Chương I, Chương II
(Phần 4) của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về biện pháp tạm
giữ người, áp giải người theo thủ tục hành chính và áp dụng hình thức xử phạt
trục xuất. Các quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng giúp các cơ quan chức
năng kịp thời ngăn chặn hành vi vi phạm hành chính, xác minh tình tiết của vụ
việc vi phạm, bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả trong xử lý vi phạm hành
chính. Theo đó, để triển khai thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012,
ngày 02/10/2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 112/2013/NĐ-CP quy định
hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành
chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm
thủ tục trục xuất (sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số
117/2016/NĐ-CP ngày 17/3/2016).
Qua gần 10 năm triển khai
thực hiện, Nghị định số 112/2013/NĐ-CP quy định hình thức xử phạt trục xuất,
biện pháp tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành chính và quản lý người nước
ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất (sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định số 117/2016/NĐ-CP ngày 17/3/2016), (sau đây gọi là Nghị
định 112) đã tạo được hành lang pháp lý hữu hiệu và góp phần quan trọng trong
việc bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác đấu
tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật hành chính, đảm bảo quyền con
người, quyền công dân, đảm bảo tuân thủ đúng các quy định của pháp luật trong
việc áp dụng các biện pháp xử phạt, các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi
phạm hành chính.
Ngày 13/11/2020 tại kỳ
họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020. Theo đó, một số chức danh có thẩm quyền
xử phạt hành chính, thẩm quyền tạm giữ người, áp giải người theo thủ tục hành
chính và áp dụng biện pháp trục xuất hành chính đã được sửa đổi, bổ sung và quy
định mới tại các khoản 3 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 4 về Thẩm quyền quy định
về xử phạt vi phạm hành chính và chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính),
khoản 28 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 54 về Giao quyền xử phạt), khoản 61 Điều
1 (sửa đổi, bổ sung Điều 122 về Tạm giữ người theo thủ tục hành chính), khoản
62 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 123 về Thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục
hành chính), khoản 63 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 124 về Áp giải người vi
phạm). Chính vì vậy, việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định này vào một
Nghị định mới để thay thế Nghị định số 112 về tạm giữ người, áp giải người theo
thủ tục hành chính và áp dụng biện pháp trục xuất hành chính là hết sức cần
thiết.
Mặt khác, thực tiễn của
công tác tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành chính và trục xuất hành chính
trong thời gian vừa qua đã phát sinh một số những khó khăn, vướng mắc, cụ thể
như:
Thứ nhất,về các
trường hợp được tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành chính:
Theo báo cáo của Công an
các đơn vị, địa phương, tính từ năm 2014 đến năm 2020, số lượt người bị tạm giữ
theo thủ tục hành chính khoảng trên 10.000 lượt, tập trung tại các địa phương
như thành phố Hà Nội (4.444 lượt đối tượng); Hà Tĩnh (597 lượt đối tượng); Quảng
Ngãi (451 lượt đối tượng); Lạng Sơn; 190 đối tượng (03 tháng đầu năm 2021); Bắc
Kạn: 296 đối tượng; Vĩnh Phúc: 316 đối tượng; Kiên Giang: 804 đối tượng; Tây
Ninh: 172 đối tượng; Đà Nẵng: 113 đối tượng;…
Việc tạm giữ người theo
thủ tục hành chính chủ yếu xảy ra trong các lĩnh vực như: gây rối trật tự công
cộng, gây thương tích cho người khác, buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa
qua biên giới,..;
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều hành vi vi phạm hành chính cần ngăn chặn, đình
chỉ ngay như hành vi vi phạm như chống đối người thi hành công vụ, sử dụng trái
phép chất ma túy, tàng trữ, vận chuyển trái phép các chất nghi là ma túy, vật
liệu nổ, pháo nổ, trộm cắp tài sản dưới 02 triệu đồng, đánh bạc dưới 05 triệu
đồng, vi phạm quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, đi lại của người nước
ngoài tại Việt Nam, người nước ngoài không có giấy tờ tùy thân, không có nơi cư
trú ổn định; … lại chưa được hướng dẫn và quy định cụ thể trong Nghị định số
112/2013/NĐ-CP. Điều này đã dẫn đến tình trạng thiếu căn cứ pháp lý để áp dụng
các biện pháp này trong thực tiễn, gây nhiều khó khăn cho công tác điều tra, xác
minh, xử lý vi phạm hành chính.
Thứ hai, về áp dụng
hình thức xử phạt trục xuất đối với người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam:
Thời gian qua, thực hiện
chủ trương, chính sách mở cửa, tăng cường quan hệ đối ngoại, chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quản lý và
văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài
nhập cảnh vào Việt Nam với mục đích đầu tư, khảo sát thị trường, thăm thân, du
lịch... nhằm thu hút các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, cụ thể như: cho phép các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước
ngoài cấp thị thực giá trị 15 ngày (thị thực D) cho người nước ngoài có nhu cầu
vào Việt Nam, không cần cơ quan, tổ chức trong nước bảo lãnh. Việt Nam đã ký
Hiệp định song phương miễn thị thực cho người mang hộ chiếu ngoại giao, công vụ
với gần 60 nước trên thế giới; đã thực hiện miễn thị thực cho công dân mang hộ
chiếu phổ thông với thời hạn cao nhất là 30 ngày đối với hầu hết các nước trong
khối ASEAN; mở rộng đơn phương miễn thị thực cho công dân nhiều nước khác… Theo
đó, với chính sách thông thoáng, thủ tục nhập cảnh dễ dàng, đơn giản nên số
lượng người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam ngày càng tăng, đa dạng về thành phần,
với nhiều mục đích khác nhau.
Tuy nhiên, lợi dụng chính
sách mở của Nhà nước ta, thời gian gần đây, đã xảy ra tình trạng một số người
nước ngoài vào Việt Nam dưới nhiều danh nghĩa khác nhau nhằm mục đích hoạt động
phạm tội. Các vụ việc người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam ngày càng gia
tăng, thậm chí có nhiều vụ với tính chất rất nghiêm trọng, gây bức xúc trong
nhân dân.
Theo báo cáo của Công an
các đơn vị, địa phương và các cơ quan thuộc các Bộ, ngành có thẩm quyền áp dụng
hình thức xử phạt trục xuất và quản lý người nước ngoài vi phạm hành chính trong
thời gian làm thủ tục trục xuất cho thấy, trong gần 10 năm triển khai thi hành
Nghị định số 112/2013/NĐ-CP, số đối tượng là người nước ngoài vi phạm pháp luật
Việt Nam bị trục xuất khỏi Việt Nam khoảng hơn 1000 đối tượng (1063 đối tượng/58
tỉnh, thành phố), tập trung chủ yếu tại các địa phương như Bắc Ninh (244 đối
tượng); Thành phố Hà Nội (336 đối tượng, trong đó: Hạn chế việc đi lại của người
nước ngoài, trục xuất: 149 trường hợp; Chỉ định chỗ ở của người nước ngoài: 76
trường hợp; tạm giữ hộ chiếu hoặc giấy tờ tùy thân khác: 106 trường hợp; bắt
buộc lưu trú tại Cơ sở lưu trú số 1 thuộc Bộ Công an: 35 trường hợp); Bộ Quốc
phòng: 181 đối tượng; Hải Phòng: 111 đối tượng (chưa kể số lượng đối tượng vi
phạm pháp luật Việt Nam được thực hiện bằng phương thức đưa họ trở lại quốc gia
mà họ mang quốc tịch, trực tiếp làm việc và tiến hành các thủ tục pháp lý với cơ
quan chức năng của nước họ, có vụ việc lên tới hàng trăm người); Lạng Sơn (trong
03 tháng đầu năm 2021) trục xuất 124 đối tượng;.. và đặc biệt tăng trong 03 năm
gần đây (2019, 2020, 2021). Các hành vi vi phạm của đối tượng là người nước
ngoài tập trung chủ yếu vào những hành vi như: gây rối trật tự công cộng; xuất,
nhập cảnh trái phép, cư trú trái phép; vận chuyển, sử dụng trái phép chất ma
túy; trộm cắp tài sản; sử dụng giấy chứng nhận tạm trú quá thời hạn; vận chuyển,
mua bán, lưu hành tiền giả, lừa đảo rút tiền ngân hàng, kinh doanh, hướng dẫn du
lịch trái phép, mở cửa cơ sở chữa bệnh trái phép, hoạt động môi giới hôn nhân
trái phép,…
Bên cạnh đó, tình trạng
người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam đã bị áp dụng hình thức xử phạt trục
xuất nhưng cơ quan quản lý đối tượng này không thể tiến hành làm thủ tục trục
xuất họ theo đúng thời hạn trục xuất vì một số nguyên nhân như: người bị trục
xuất không có điều kiện để hoàn thành các nghĩa vụ về dân sự, kinh tế, hành
chính theo quy định; không có giấy tờ hoặc không mang theo giấy tờ tùy thân; sử
dụng giấy chứng nhận tạm trú quá thời hạn mà không được cơ quan có thẩm quyền
cho phép; không xác định được quốc tịch của người nước ngoài bị trục xuất; hướng
dẫn về quản lý, sử dụng kinh phí phục vụ cho công tác trục xuất hoặc buộc xuất,
nhập cảnh; việc tiến hành thủ tục trục xuất đối với các trường hợp bị trục xuất
cần chăm sóc y tế, mất năng lực hành vi dân sự; các cơ sở lưu trú chưa thực sự
được quan tâm, chú trọng về cơ sở vật chất cũng như kinh phí phục vụ cho công
tác trục xuất hoặc buộc xuất cảnh,…
Thứ ba, về thời hạn
tạm giữ người theo thủ tục hành chính:
Theo quy định tại Điều 11
Nghị định số 112/2013/NĐ-CP, việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính được
thực hiện theo các hình thức sau: (1) gây rối trật tự công cộng; (2) Gây thương
tích cho người khác; (3) Khi cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; (4) Khi cần ngăn chặn người có hành vi
vi phạm quy định tại Khoản 5 Điều 12 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và
Khoản 1 Điều 12 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 04/2/2009 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Theo đó,
thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính là không quá 12 giờ, trường hợp
cần thiết có thể kéo dài hơn nhưng không được quá 24 giờ, kể từ thời điểm bắt
đầu giữ người vi phạm theo quy định tại Khoản 3 Điều 122 Luật Xử lý vi phạm hành
chính 2012.
Tuy nhiên, thực tế của
việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính cho thấy, có rất nhiều trường hợp vi
phạm cần xác minh, làm rõ nhân thân, chứng cứ và hồ sơ liên quan đến đối tượng
vi phạm nhưng thời hạn tạm giữ như quy định nêu trên là không đủ để các cơ quan
chức năng tiến hành các thủ tục cần thiết, gây nhiều khó khăn cho các lực lượng
có thẩm quyền tạm giữ người theo t hủ tục hành chính trong việc quản lý đối
tượng vi phạm cũng như áp dụng các biện pháp xử lý thay thế khác.
Tạm giữ, áp giải người
theo thủ tục hành chính và trục xuất là những biện pháp ngăn chặn, chế tài xử
phạt hành chính có tính cưỡng chế cao; khi áp dụng khá nhạy cảm vì liên quan đến
việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, trong đó có quyền tự do
thân thể của công dân, đặc biệt là liên quan đến đối tượng là người nước ngoài
có hành vi vi phạm pháp luật hành chính, bị buộc phải trục xuất khỏi lãnh thổ
Việt Nam. Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020 chỉ quy định mang tính nguyên
tắc đối với các biện pháp nói trên, nên để bảo đảm quy định của Luật được thi
hành trên thực tế, Luật đã giao Chính phủ quy định chi tiết thi hành.
Vì vậy, để bảo đảm cho
việc tạm giữ, áp giải người theo thủ tục hành chính và áp dụng hình thức xử phạt
trục xuất được thực hiện theo đúng quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính
năm 2012, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính
năm 2020, bảo đảm tính khả thi, nâng cao hiệu quả của việc xử lý vi phạm hành
chính và nằm tăng cường tác dụng răn đe, giáo dục người vi phạm thì việc ban
hành Nghị định quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ, áp giải
người theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt
Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuấtlà cần thiết.
- Mục đích ban hành
+ Sửa đổi, bổ sung các
quy định liên quan đến việc xử phạt trục xuất, tạm giữ người, áp giải người theo
thủ tục hành chính bảo đảm phù hợp với quy định pháp luật hiện hành.
+ Kịp thời giải quyết
những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thi hành các quy định pháp
luật liên quan đến việc trục xuất, tạm giữ người, áp giải người vi phạm hành
chính; đồng thời, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, thi hành pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính.
c) Nội dung chủ yếu:
Nghị định gồm
06 chương, với 45 điều, cụ thể như sau:
Chương I. Quy định
chung
Chương này gồm 04 điều
(từ Điều 1 đến Điều 4), quy định về Phạm vi điều chỉnh; Đối tượng áp dụng;
Nguyên tắc áp dụng và Kinh phí bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp tạm giữ, áp
giải người theo thủ tục hành chính và áp dụng hình thức xử phạt trục xuất.
Chương II. Xử phạt
trục xuất và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian
làm thủ tục trục xuất
Chương này gồm 11
điều (từ Điều 5 đến Điều 15), quy định về đối tượng áp dụng hình thức xử phạt
trục xuất; thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt trục xuất; quyền, nghĩa vụ của
người bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất; hồ sơ đề nghị áp dụng hình thức xử
phạt trục xuất; quyết định áp dụng hình thức xử phạt trục xuất; thi hành Quyết
định áp dụng hình thức xử phạt trục xuất; Hoãn thi hành Quyết định áp dụng hình
thức xử phạt trục xuất; hồ sơ áp dụng hình thức xử phạt trục xuất; quản lý người
nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất;chế
độ đối với người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ
tục trục xuất;trách nhiệm của Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an.
Chương III. Tạm giữ
người theo thủ tục hành chính
Chương này gồm 14
điều (từ Điều 16 đến Điều 29), quy định tạm giữ người theo thủ tục hành chính;
thẩm quyền tạm
giữ người theo thủ tục hành chính; thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành
chính; quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính; kéo dài thời hạn tạm
giữ; hủy bỏ áp dụng biện pháp tạm giữ người bị tạm giữ theo thủ tục hành chính;
nơi tạm giữ; thông báo quyết định tạm giữ; tiếp nhận người bị tạm giữ theo thủ
tục hành chính; quản lý người bị tạm giữ theo thủ tục hành chính; giao, nhận
người có hành vi vi phạm hành chính; quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ; chế
độ ăn uống của người bị tạm giữ; người bị tạm giữ theo thủ tục hành chính bị
bệnh hoặc chết trong thời gian tạm giữ.
Chương IV. Áp giải
người theo thủ tục hành chính
Chương này gồm 06 điều
(từ Điều 30 đến Điều 35), quy định về áp giải người vi phạm; thực hiện việc áp
giải; thủ tục áp giải; giao nhận người bị áp
giải; biên bản giao, nhận người bị áp giải; xử lý một số tình huống trong khi áp
giải.
Chương V. Trách nhiệm
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
Chương này gồm 08 điều (từ Điều 36 đến Điều 43), quy định về trách nhiệm của các
bộ: Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Y tế, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan.
Chương VI. Điều khoản
thi hành
Chương này gồm 02 điều
(Điều 44 và Điều 45),quy định về hiệu lực thi hành và trách nhiệm thi hành.
27. Nghị định số
143/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 88/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 11 năm 2019 quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng
a) Hiệu lực thi
hành:
Nghị định số 143/2021/NĐ-CP
có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
- Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính số 67/2020/QH14 đã được Quốc hội
khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 10 ngày 13/11/2020, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2022 với nhiều nội dung mới như: quy định cụ thể về nguyên tắc xử
phạt đối với từng hành vi trong trường hợp “vi phạm hành chính nhiều lần”, bổ
sung quy định giao Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc và
hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện… Vì vậy, các nội dung liên quan đến xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng được quy định tại
Nghị định số 88/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng (sau đây gọi tắt là Nghị định 88) phải được
cập nhật, sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với Luật số
67/2020/QH14.
- Sau hơn 01 năm triển
khai thực hiện thi hành Nghị định 88, bên cạnh những kết quả đạt được, Nghị định
88 đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như:
+ Một số văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan mới ban hành đòi hỏi phải rà soát để sửa đổi, bổ sung các
hành vi vi phạm hành chính;
+ Mức xử phạt đối với một
số hành vi vi phạm hành chính còn thấp, chưa mang tính răn đe, chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế và khuyến nghị của Nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về phòng chống
rửa tiền (APG), cụ thể như sau: Theo đánh giá của APG đối với cơ chế phòng,
chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố của Việt Nam, đặc biệt là đánh giá
tính tuân thủ và tính hiệu quả việc thực hiện Khuyến nghị 35 trên thực tế: Hình
phạt không đảm bảo tính răn đe, dẫn đến hành vi vi phạm có thể sẽ được lặp lại,
mục đích xử phạt không đạt được. Theo thông lệ quốc tế tại một số nước, mức phạt
tiền tối đa đối với hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền; phòng,
chống tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt khá cao .
c) Nội dung chủ
yếu: Nghị định số
143/2021/NĐ-CP
gồm một số nội dung cơ bản sau đây:
- Về hành vi
vi phạm hành chính nhiều lần là tình tiết tăng nặng: Nghị định quy định xử
phạt về từng hành vi vi phạm để tăng tính răn đe, hạn chế vi phạm xảy ra đối với
một số hành vi sau đây: (i) vi phạm quy định về Giấy phép do NHNN cấp; (ii) vi
phạm quy định về quản trị điều hành; (iii) vi phạm quy định về cản trở việc
thanh tra, không thực hiện yêu cầu của người có thẩm quyền; (iv) vi phạm quy
định về an toàn công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng. Đối với các hành
vi vi phạm khác tại Chương II Nghị định 88, áp dụng xử phạt theo tình tiết tăng
nặng nhằm hướng dẫn điểm d khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính (đã được
sửa đổi, bổ sung).
- Về hành vi
vi phạm hành chính đã kết thúc và hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện:
Nghị định quy định cụ thể về thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm để tính thời
hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với một số hành vi vi phạm quy định tại
Chương II Nghị định 88 theo 05 nhóm như sau: (i) Nhóm hành vi có thời điểm chấm
dứt hành vi vi phạm để tính thời hiệu xử phạt là ngày các bên hoàn thành nghĩa
vụ theo thỏa thuận, hợp đồng liên quan đến hành vi vi phạm hành chính; (ii) Nhóm
hành vi có thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm để tính thời hiệu xử phạt là ngày
thực hiện niêm yết công khai, cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo, sửa đổi, bổ
sung thông tin, tài liệu, báo cáo; (iii) Nhóm hành vi có thời điểm chấm dứt hành
vi vi phạm để tính thời hiệu xử phạt là ngày thực hiện đăng ký, thông báo, thực
hiện thủ tục hành chính, gửi, ban hành, sửa đổi, bổ sung quy định nội bộ, nội
quy, phương án; (iv) Nhóm hành vi có thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm để tính
thời hiệu xử phạt là ngày thực hiện đúng tỷ lệ bảo đảm an toàn, phân loại tài
sản có, cam kết ngoại bảng, trích lập dự phòng rủi ro, sử dụng dự phòng rủi ro
theo quy định của pháp luật; (v) Nhóm hành vi có thời điểm chấm dứt hành vi vi
phạm để tính thời hiệu xử phạt là ngày NHNN chấp thuận bằng văn bản (Điều 2b).
- Về nâng
mức phạt tiền đối với một số hành vi vi phạm cụ thể: Nghị định nâng mức phạt
tiền và bổ sung biện pháp khắc phục hậu quả đối với các hành vi vi phạm quy định
về phòng, chống rửa tiền; phòng, chống tài trợ khủng bố với khoảng chênh lệch
giữa mức xử phạt tối thiểu và mức xử phạt tối đa là 50.000.000 đồng hoặc
100.000.000 đồng tùy từng hành vi vi phạm hành chính.
- Về sửa
đổi, bổ sung một số hành vi vi phạm hành chính cụ thể: Căn cứ quy định của
Luật Xử lý vi phạm hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung) và các văn bản hướng
dẫn thi hành, trên cơ sở trách nhiệm, nghĩa vụ và điều cấm tại các văn bản quy
phạm pháp luật được ban hành từ khi Nghị định 88 có hiệu lực thi hành đến nay,
Nghị định đã sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số hành vi vi phạm hành chính đồng
thời, căn cứ tính chất vi phạm đặc thù để quy định tại dự thảo Nghị định với mức
xử phạt phù hợp.
- Về thẩm
quyền, phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính : Nghị định bổ sung
Điều 54a, 54b, 54c, 54d, 54đ, 54e, 54g, 54h vào sau Điều 54 Nghị định 88 về thẩm
quyền xử phạt của một số chức danh thuộc lực lượng có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
28. Nghị định số
144/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn
xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình
a) Hiệu lực thi
hành:Nghị
định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
- Sự cần
thiết ban hành
Nghị
định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn
xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình được ban hành đã
góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; tạo hành
lang pháp lý hữu hiệu để đảm bảo công tác xử lý, xử phạt vi phạm hành chính;
đồng thời, đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm,
bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Tuy
nhiên, thời gian qua, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm
pháp luật về lĩnh vực an ninh, trật tự, như: Bộ luật hình sự năm 2015, Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2017, Luật Công an nhân dân năm
2018, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính năm
2020; Luật Cư trú năm 2020; Luật Căn cước công
dân năm 2014; Luật Đầu tư năm 2020; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam
năm 2019; Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019; Luật Phòng,
chống ma túy năm 2021; Luật Quản lý, sử dụng
vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017 và Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm
2019; Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018; Luật Thi hành án hình sự năm 2019…
theo đó, một số chức danh có thẩm quyền xử phạt đã không còn được quy định hoặc
thay đổi về tên gọi, nhiều hành vi vi phạm hành chính, mức xử phạt quy định tại
Nghị định số 167/2013/NĐ-CP cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các
văn bản quy phạm pháp luật mới này nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ
thống pháp luật, phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Bên cạnh đó,
qua thực tiễn tổ chức thực hiện Nghị định số 167/2013/NĐ-CP đã phát sinh một số
khó khăn, vướng mắc trong công tác xử lý vi phạm hành chính, cụ thể như: một số
hành vi chưa được quy định trong Nghị định hoặc quy định chưa rõ ràng, cụ thể
gây khó khăn, lúng túng trong công tác xử lý vi phạm hành chính; nhiều hành vi
vi phạm mức phạt tiền còn thấp, chưa có hình thức xử phạt bổ sung hoặc các biện
pháp khắc phục hậu quả nên tính răn đe, giáo dục còn hạn chế.
-
Mục đích ban hành
Bảo đảm sự phù hợp
với Luật Xử lý vi phạm hành chính; đồng thời, bảo đảm tính thống nhất của Nghị
định trong hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan và phù hợp với các Điều
ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Thể chế hoá
quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về đấu tranh phòng, chống tội phạm,
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội nói chung nhằm góp phần tạo môi trường an toàn,
ổn định để xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc
tế.
Bảo đảm việc xử
phạt nghiêm minh nhưng có tính khả thi, hiệu quả và phù hợp với thực tế; góp
phần bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Bảo đảm công
khai, minh bạch, hiệu quả trong xử phạt vi phạm hành chính, bảo đảm các quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
c) Nội dung chủ
yếu:Nghị
định đã quy định chi tiết một số nội dung của Luật Xử lý vi phạm hành chính như
đối tượng áp dụng, hình thức xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính; các hành vi vi phạm hành chính, mức phạt tiền cơ bản kế thừa
các quy định hiện hành, còn phù hợp của Nghị định số 167/2013/NĐ-CP đã được thực
hiện ổn định. Bên cạnh đó, Nghị định đã sửa đổi, bổ sung một số hành vi vi phạm
hành chính trên cơ sở quy định mới của Bộ luật hình sự năm 2015, Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2017, Luật Công an nhân dân năm
2018, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính năm
2020; Luật Cư trú năm 2020; Luật Căn cước công
dân năm 2014; Luật Đầu tư năm 2020; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam
năm 2019; Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019; Luật Phòng,
chống ma túy năm 2021; Luật Quản lý, sử dụng
vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017 và Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm
2019; Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018; Luật Thi hành án hình sự năm
2019,...; sửa đổi các hành vi vi phạm và loại bỏ một số hành vi không còn phù
hợp với các quy định mới của pháp luật. Một số quy định của Luật Xử lý vi phạm
hành chính về nguyên tắc xử phạt, thủ tục xử phạt, thi hành quyết định xử phạt,
giao quyền xử phạt được Nghị định quy định dẫn chiếu Luật để thực hiện. Trên cơ
sở đó, Nghị định đã quy định như sau:
Chương
I -
Những quy định chung
Chương
này gồm các quy định chung của Nghị định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp
dụng; hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả; quy
định về mức phạt tiền; tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính; nguyên tắc xử phạt
đối với hộ gia đình, hộ kinh doanh cá thể;thời
hiệu xử phạt vi phạm hành chính;
nguyên tắc áp dụng hình
thức xử phạt vi phạm hành chính
thủ tục xử phạt đối với những hành vi đồng thời được quy định trong Bộ luật Hình
sự. Trong đó:
- Bổ sung quy
định cụ thể các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại Nghị định.
- Bổ sung quy định
cụ thể các tổ chức bị xử phạt theo quy định tại Nghị định.
- Bổ sung 01
Điều quy định về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính; trong đó đã xác định cụ
thể hành vi đã kết thúc và hành vi đang diễn ra.
- Bổ sung 01
Điều quy định về nguyên tắc áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính.
- Bổ sung 01
Điều quy định về thủ tục xử phạt đối với những hành vi đồng thời được quy định
trong Bộ luật hình sự.
Chương II
- Hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu
quả
Chương này quy
định cụ thể hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục
hậu quả, cụ thể:
- Mục 1: Vi phạm hành chính về an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi: Vi phạm quy
định về trật tự công cộng; vi phạm quy định về bảo đảm sự yên tĩnh chung; Vi
phạm quy định về giữ gìn vệ sinh chung; vi phạm quy định về đăng ký và quản lý
cư trú; Vi phạm quy định về cấp, quản lý, sử dụng Giấy chứng minh nhân dân,
Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân; Vi phạm quy định về quản lý, sử
dụng vũ khí, vật liệu nổ,
tiền chất thuốc
nổ,công
cụ hỗ trợ, pháo vàđồ chơi nguy hiểm bị cấm; Vi phạm các quy định về quản
lý ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự; Vi phạm các
quy định về quản lý và sử dụng con dấu; Vi phạm các quy định về thi hành án hình
sự, thi hành các biện pháp xử lý hành chính; Vi phạm quy định về gây thiệt hại
đến tài sản của tổ chức, cá nhân khác; Vi phạm quy định về họ, hụi, biêu,
phường; Vi phạm quy định về bảo vệ các công trình công cộng, công trình an ninh,
trật tự; Vi phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú và đi
lại; Vi phạm quy định về bảo vệ bí mật nhà nước; Vi phạm quy định về quản lý, sử
dụng trang phục, cấp hiệu, phù hiệu, số hiệu dành riêng cho lực lượng Công an
nhân dân; Hành vi cản trở, chống lại việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của
người thi hành công vụ hoặc đưa hối lộ người thi hành công vụ; Vi phạm quy định
về xây dựng, quản lý, sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về
cư trú, Cơ sở dữ liệu Căn cước công dân.
- Mục 2: Vi
phạm hành chính về phòng, chống tệ nạn xã hội, quy định xử phạt vi phạm hành
chính về phòng, chống và kiểm soát ma tuý; hành vi mua dâm; hành vi bán dâm;
hành vi khác có liên quan đến mua dâm, bán dâm; hành vi lợi dụng kinh doanh,
dịch vụ để hoạt động mua dâm, bán dâm; hành vi đánh bạc trái phép.
- Mục
3: Vi phạm hành chính về phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ, quy định xử
phạt vi phạm hành chính về:
Vi phạm quy định trong việc ban hành, phổ biến và thực
hiện nội quy, biển báo, biển cấm, sơ đồ, biển chỉ dẫn về phòng cháy, chữa
cháy và
cứu nạn, cứu hộ;
Vi phạm quy định về kiểm tra an toàn phòng cháy và chữa cháy, cứu nạn,
cứu hộ; Vi phạm về hồ sơ
quản lý, theo
dõi hoạt động phòng cháy
và chữa cháy,
cứu nạn, cứu hộ; Vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy trong quản
lý, bảo quản và sử dụng chất, hàng hóa nguy hiểm về cháy, nổ; Vi
phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy trong sản xuất, kinh doanh
chất, hàng hóa nguy hiểm về cháy, nổ; Vi phạm quy định trong vận chuyển
chất, hàng hóa nguy hiểm về cháy, nổ; Vi phạm quy định về phòng cháy và
chữa cháy trong quản lý, sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt, dụng cụ sinh lửa, sinh
nhiệt hoặc các thiết bị điện tử; Vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy
trong lắp đặt, quản lý, sử dụng điện; Vi phạm quy định về an toàn phòng cháy và
chữa cháy trong thi công, kiểm tra, bảo trì hệ thống chống sét; Vi phạm quy định
về phòng cháy và chữa cháy trong đầu tư, xây dựng; Vi phạm quy định về khoảng
cách an toàn phòng cháy và chữa cháy và ngăn cháy; Vi phạm quy định về thoát nạn
trong phòng cháy và chữa cháy; Vi phạm quy định về phương án chữa cháy, cứu nạn,
cứu hộ; Vi phạm quy định về thông tin báo cháy, sự cố tai nạn; Vi phạm quy định
về khai báo cơ sở dữ liệu về phòng cháy và chữa cháy và truyền tin báo sự cố; Vi
phạm quy định về trang bị, bảo quản và sử dụng phương tiện phòng cháy và chữa
cháy; Vi phạm quy định về công tác chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; Vi phạm quy định
về tuyên truyền, phổ biến pháp luật, kiến thức và huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp
vụ về phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; Vi phạm quy định về thành lập, tổ
chức quản lý đội phòng cháy và chữa cháy cơ sở, đội phòng cháy và chữa cháy
chuyên ngành; Vi phạm quy định về
kinh doanh
dịch vụ
phòng cháy và chữa cháy;
Vi phạm quy định về bảo
hiểm cháy, nổ bắt buộc;
Vi phạm quy định về phòng, chống cháy, nổ tại hộ gia đình; Vi phạm
trong việc để xảy ra cháy, nổ.
- Mục
4: Vi phạm hành chính về phòng, chống bạo lực gia đình, quy định xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi xâm hại
sức khỏe thành viên gia đình;
hành vi hành hạ, ngược
đãi thành viên gia đình;
hành vi xúc phạm danh
dự, nhân phẩm của thành viên gia đình;
hành vi cô lập, xua đuổi
hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý;
hành
vi ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà
và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
vi phạm quy định về chăm
sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng;
hành vi bạo lực về kinh
tế; hành
vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp của họ;
hành vi bạo lực đối với
người ngăn chặn, phát hiện, báo tin bạo lực gia đình, người giúp đỡ nạn nhân bạo
lực gia đình;
hành vi cưỡng bức, kích
động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi bạo lực gia đình;
hành vi cố ý không ngăn
chặn, báo tin hành vi bạo lực gia đình và cản trở việc ngăn chặn, báo tin, xử lý
hành vi bạo lực gia đình;
hành vi sử dụng, truyền
bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động hành vi bạo lực gia đình;
vi phạm quy định về tiết
lộ thông tin về nạn nhân bạo lực gia đình;
hành vi lợi dụng hoạt
động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi;
vi phạm quy định về đăng ký hoạt động đối với cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia
đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình;
vi phạm quy định về quyết định cấm
tiếp xúc của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.
Chương III
- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Chương này quy
định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các
cấp, của Công an nhân dân, và thẩm quyền xử phạt hành chính của các cơ quan
khác. Nghị định đã sửa đổi, bổ sung một số chức danh có thẩm quyền xử phạt cho
phù hợp với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2020, Luật Công an nhân dân năm 2018 và các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Chương IV
- Điều khoản thi hành
Chương này quy
định về hiệu lực thi hành; điều khoản chuyển tiếp; trách nhiệm thi hành của Bộ
trưởng Bộ Công an chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra đôn đốc và tổ chức thực
hiện Nghị định này; trách nhiệm của các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ,
Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương và tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành Nghị
định này.
29. Quyết định số
37/2021/QĐ-TTg ngày 18 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về Mạng bưu
chính phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước
a) Hiệu lực thi
hành:
Quyết định này có hiệu lực từ ngày 15 tháng 02 năm 2022 và thay thế Quyết định
số 55/2016/QĐ-TTg ngày 26 tháng 12 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về Mạng bưu
chính phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
-
Sự cần thiết:
Để phù hợp với Luật Bảo
vệ bí mật nhà nước
Quyết định số
55/2016/QĐ-TTg ngày 26/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ về Mạng bưu chính phục vụ
cơ quan Đảng, Nhà nước (sau đây gọi là Quyết định số 55/2016/QĐ-TTg) tại thời
điểm ban hành đã đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với các quy định của pháp luật
chung. Tuy nhiên năm 2018, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước đã được Quốc hội khoá XIV
thông qua, thay thế Pháp lệnh về bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000 với một số nội
dung sửa đổi, bổ sung mới. Do đó, một số điểm của Quyết định số 55/2016/QĐ-TTg
hiện không còn đồng bộ, thống nhất với Luật Bảo vệ bí mật nhà nước, cần phải
được xem xét, điều chỉnh cho phù hợp.
Giải quyết một
số vấn đề bất cập trong thực tiễn
Trong 05 năm
qua, việc cung cấp dịch vụ bưu chính phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước (sau đây gọi
là dịch vụ bưu chính KT1) được thực hiện thống nhất, rộng khắp trên cả nước qua
Mạng bưu chính phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước (sau đây gọi là Mạng bưu chính
KT1) do Nhà nước giao cho Cục Bưu điện Trung ương (sau đây gọi tắt là Cục BĐTW)
quản lý, điều hành, khai thác.
Bên cạnh những
kết quả đã đạt được, Quyết định số 55/2016/QĐ-TTg đã bộc lộ một số hạn chế cần
được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn, cụ thể như sau:
+
Khoản
5 Điều 13 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước quy định "Vận chuyển tài liệu, vật chứa bí
mật nhà nước qua dịch vụ bưu chính được thực hiện theo quy định của pháp luật về
bưu chính". Tuy nhiên,
Quyết định số 55/2016/QĐ-TTg mới chỉ
quy định về việc gửi tài
liệu, vật chứa bí mật nhà nước của
các cơ quan Đảng, Nhà nước
tại Phụ lục I,
Phụ lục II
của Quyết định này mà chưa quy định cho việc gửi tài
liệu, vật chứa bí mật nhà nước
của
tổ chức theo quy định của
Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (cơ quan, tổ chức ngoài Phụ lục I, Phụ lục II ban
hành kèm theo Quyết định).
+
Chưa có quy
định ưu tiên việc chấp nhận, vận chuyển và phát bưu gửi KT1 theo độ khẩn, độ mật
trong trường hợp khẩn cấp để bảo đảm tính “nhanh chóng, chính xác, kịp thời
trong mọi tình huống” theo nguyên tắc hoạt động của Mạng bưu chính KT1.
+
Qua rà soát,
một số cơ quan Đảng, Nhà nước ở địa phương chưa có trong đối tượng phục vụ của
Mạng bưu KT1 tại Phụ lục II:
* Ở cấp tỉnh:
Đảng ủy khối Cơ quan tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Đảng ủy khối Doanh
nghiệp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (do theo cơ cấu tổ chức Đảng cấp
địa phương); Bảo hiểm xã hội (do theo cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội tại địa
phương); “Hội Nông dân”, “Hội Cựu chiến binh” (do theo cơ cấu của hệ thống các
tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương)…
* Ở cấp huyện:
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Ban chỉ huy quân sự, Công an, Bảo hiểm
xã hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Liên đoàn
Lao động, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh…
Tại Phụ lục II
cũng chưa có đơn vị hành chính cấp xã và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt
theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương, do đó chưa bảo đảm đầy đủ, thống nhất
với tên gọi, mục tiêu thiết lập Mạng là phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước (ở các
cấp).
+
Luật Bảo vệ bí
mật nhà nước 2018 đã bỏ nội dung "người được giao nhiệm vụ tiếp xúc với bí mật
nhà nước phải cam kết bảo vệ bí mật nhà nước" quy định tại Điều 18 Pháp lệnh về
bảo vệ bí mật nhà nước. Tuy nhiên, tại khoản 4 Điều 6 Quyết định số
55/2016/QĐ-TTg hiện đang quy định "người người lao động tham gia trực tiếp vào
quá trình cung cấp dịch vụ bưu chính KT1" phải "cam kết bảo vệ bí mật nhà nước
bằng văn bản".
Từ những lý do nêu trên, việc xây dựng và ban hành
Quyết
định
thay thế
Quyết định số 55/2016/QĐ-TTg là
cần thiết
nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
bưu
chính và
nâng cao hiệu quả
hoạt động của Mạng bưu chính KT1, phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành, phối hợp
thông tin của các cơ quan Đảng, Nhà nước ở trung ương và địa phương.
-
Mục đích ban hành:
+
Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.
+ Tăng
cường công tác bảo đảm bí mật nhà nước; bảo đảm bí mật, an ninh, an toàn, nhanh
chóng, chính xác, kịp thời trong mọi tình huống.
+ Khắc phục
những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn tổ chức thi hành Quyết định;
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn quản lý nhà nước đối với việc cung cấp và sử dụng
dịch vụ bưu chính phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước.
c) Nội dung chủ yếu:
+ Quy định về nguyên tắc
hoạt động của Mạng: (a) Bảo đảm bí mật nhà nước; (b) Bảo đảm bí mật, an ninh, an
toàn, nhanh chóng, chính xác, kịp thời trong mọi tình huống; (c) Thống nhất
trong tổ chức, quản lý, vận hành và khai thác; (d) Không vì mục đích kinh doanh.
+
Quy định Đối tượng phục vụ: Đối tượng phục vụ của Mạng bưu chính KT1
+ Quy định Dịch vụ bưu
chính KT1
+ Quy định về Bảo đảm an
ninh, an toàn trong cung cấp dịch vụ bưu chính KT1
+ Quy định về Chất lượng
dịch vụ bưu chính KT1
+ Quy định về Kinh phí
bảo đảm hoạt động của Mạng
+ Quy định về Quyền và
nghĩa vụ của Cục Bưu điện Trung ương
+ Quy định về Quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp được chỉ định thực hiện duy trì, quản lý mạng bưu
chính công cộng
+ Quy định về Quyền và
nghĩa vụ của đối tượng phục vụ
+ Quy định về Vận chuyển
tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước
+ Quy định về Trách nhiệm
của các Bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
30. Quyết định số
38/2021/QĐ-TTg ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm 2013 của
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được
sửa đổi, bổ sung một số điều theo Quyết định số 02/2017/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01
năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ
a) Hiệu lực thi
hành:
+
Quyết định này có hiệu lực từ ngày 15 tháng
02 năm 2022;
+
Quyết định này thay thế Quyết định số 02/2017/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2017
của Thủ tướng Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện
quốc gia được ban hành kèm theo Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11
năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
- Sự
cần thiết:
Quy hoạch phổ tần số vô
tuyến điện quốc gia là sở cứ pháp lý quan trọng trong việc quản lý tài nguyên
tần số. Đây cũng là sở cứ pháp lý để xây dựng các quy hoạch tần số chi tiết như
quy hoạch băng tần, quy hoạch phân kênh tần số, quy hoạch sử dụng kênh tần số.
Theo Luật Tần số vô tuyến điện (tại điều 11) đã xác định Quy hoạch này do Thủ
tướng Chính phủ ban hành “Bộ Thông tin và Truyền thông xây dựng, trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia”.
Ngày 21/11/2013, Thủ
tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 71/2013/ QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch
phổ tần số vô tuyến điện quốc gia. Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia
được ban hành phù hợp với Thể lệ thông tin vô tuyến thế giới (sửa đổi sau Hội
nghị thông tin vô tuyến thế giới WRC-12) và đáp ứng nhu cầu sử dụng tần số vô
tuyến điện tại Việt Nam. Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia ra đời đã
góp phần thúc đẩy phát triển các công nghệ mới trong lĩnh vực thông tin vô tuyến
điện và định hướng cho việc sử dụng thiết bị vô tuyến điện của các Bộ, ngành,
doanh nghiệp, đáp ứngcác nhu cầu về thông tin phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh.
Ngày 17/01/2017, Thủ
tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 02/2017/QĐ-TTg về sửa đổi, bổ sung
Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia ban hành kèm theo Quyết định
71/2013/QĐ-TTg ngày 21/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Quyết định số
02/2017/QĐ-TTg đã sửa đổi, bổ sung các nội dung của Quy hoạch phổ tần số vô
tuyến điện quốc gia trên cơ sở các sửa đổi, bổ sung của Thể lệ thông tin vô
tuyến thế giới do Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) ban hành năm 2016 và nhu
cầu phát triển của thông tin vô tuyến trong nước.
Hội nghị thông tin vô
tuyến thế giới năm 2019 (WRC-19) diễn ra vào tháng 11/2019 đã sửa đổi, bổ sung
một số nội dung Thể lệ thông tin vô tuyến. Tại Việt Nam, trong thời gian qua đã
có những thay đổi và nhu cầu mới về sử dụng tần số vô tuyến điện cho các nghiệp
vụ Di động (IMT-International Mobile Telecommunication), phát thanh truyền hình,
hàng không, hàng hải, vệ tinh và một số nghiệp vụ vô tuyến điện khác. Trên cơ sở
đó, để đảm bảo tuân thủ quy định của quốc tế tại Thể lệ thông tin vô tuyến - một
phần công ước của Liên minh Viễn thông quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và đáp ứng
nhu cầu mới về sử dụng tần số vô tuyến điện đặt ra trong nước, cần phải sửa đổi,
bổ sung Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia.
Ngày 03/11/2020, Chính
phủ đã ban hành Nghị quyết số 163/NQ-CP về việc phê duyệt Văn kiện sửa đổi Thể
lệ thông tin vô tuyến thế giới 2019 của Liên minh Viễn thông quốc tế và các
tuyên bố bảo lưu của Việt Nam được ký tại Hội nghị Thông tin vô tuyến thế giới
2019.
Tại báo cáo số
137/BCTĐ-BTP ngày 27/9/2021 về việc thẩm định dự thảo Quyết định sửa đổi Quy
hoạch phổ, Bộ Tư pháp nhất trí về sự cần thiết và cơ sở pháp lý xây dựng dự thảo
Quyết định; trình tự, thủ tục và hồ sơ dự thảo Quyết định đã bảo đảm tuân thủ
quy định về việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật.
Như vậy, việc xây dựng
Quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21
tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch phổ tần số vô tuyến
điện quốc gia được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Quyết định số
02/2017/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là dự
thảo Quyết định sửa đổi Quy hoạch phổ) là hết sức cần thiết, nhằm phù hợp với
các quy định mới của quốc tế và đáp ứng nhu cầu phát triển thông tin vô tuyến
của Việt Nam.
-
Mục đích ban
hành:
Việc xây dựng dự thảo
Quyết định sửa đổi Quy hoạch phổ nhằm: (1) định hướng phát triển cho lĩnh vực
thông tin vô tuyến điện theo hướng hiện đại, đồng bộ và ổn định lâu dài, phù hợp
với xu hướng phát triển của quốc tế, đáp ứng các nhu cầu về thông tin phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh, góp phần thực hiện sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế; (2) thúc đẩy
phát triển các công nghệ mới trong lĩnh vực thông tin vô tuyến điện, là cơ sở để
các Bộ, ngành, các tổ chức và cá nhân định hướng trong các hoạt động nghiên cứu
và phát triển, sản xuất, kinh doanh, lắp đặt và khai thác các thiết bị vô tuyến
điện trên lãnh thổ Việt Nam.
c) Nội dung chủ
yếu: Quyết định có
02 nhóm nội dung chính, bao gồm:
- Sửa đổi một số nội dung
tại Điều 5 Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21/11/2013 quy định về trách nhiệm
của Bộ TTTT, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng để đảm bảo thống nhất, đồng bộ với quy
định của Luật Tần số VTĐ năm 2009
- Sửa đổi, bổ sung một số
nội dung tại Điều 9 Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được ban hành
kèm theo Quyết định số 71/2013/QĐTTg được sửa đổi, bổ sung theo Quyết định số
02/2017/QĐ-TTg
- Sửa đổi, bổ sung Bảng
phân chia phổ tần số vô tuyến điện và một số quy định về điều kiện sử dụng băng
tần chung của ITU theo kết quả Hội nghị WRC-19
- Sửa đổi, bổ sung một số
quy định về điều kiện sử dụng băng tần cho các nghiệp vụ vô tuyến điện riêng của
Việt Nam.
+ Bổ sung Chú thích VTN24
để xác định băng tần 24,25-27,5 GHz cho IMT và định hướng các băng tần 37-43,5
GHz, 45,5-47 GHz, 47,2-48,2 GHz, 66-71 GHz được sử dụng cho IMT theo kết quả Hội
nghị thông tin vô tuyến thế giới WRC-19
+ Bổ sung Chú thích VTN25
để xác định băng tần sử dụng cho hệ thống Phát tin an toàn hàng hải kỹ thuật số
(NAVDAT)
+ Bổ sung Chú thích VTN26
để xác định tần số sử dụng cho thiết bị Hàng hải hoạt động độc lập (AMRD)
+ Bổ sung băng tần
845-851 MHz vào danh sách các băng tần được xác định sử dụng cho IMT tại Chú
thích VTN8 để làm cơ sở xây dựng các quy hoạch chi tiết cho băng tần 800/850 MHz
+ Bổ sung Chú thích VTN27
để định hướng sử dụng băng tần 600 MHz cho IMT
+ Điều chỉnh băng tần cho
vệ tinh từ 3400-3700 MHz về 3400-3560 MHz tại Chú thích VTN16 và bổ sung Chú
thích VTN16A xác định băng tần 3560-4000 MHz được sử dụng cho IMT
+ Cập nhật điều kiện sử
dụng băng tần 700 MHz cho IMT tại Chú thích VTN7 sau khi hoàn thành Đề án số hóa
truyền hình
+ Sửa đổi quy định sử
dụng băng tần 87-108 MHz cho hệ thống truyền thanh không dây tại Chú thích VTN3A
để phù hợp nhu cầu sử dụng thực tế
+ Sửa đổi Chú thích VTN5C
để phù hợp với quy định quốc tế và thực tế sử dụng băng tần của hệ thống Vô
tuyến định vị
+ Bãi bỏ quy định sử dụng
băng tần 450-470 MHz cho IMT tại Chú thích VTN6A để phù hợp nhu cầu sử dụng thực
tế
+ Bãi bỏ quy định tại Chú
thích VTN4 sau khi hoàn thành Đề án số hóa truyền hình mặt đất.
31. Quyết định số
39/2021/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định nguyên
tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương và tỷ lệ vốn đối ứng
của ngân sách địa phương thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 -
2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025
a) Hiệu lực thi hành:Quyết
định có hiệu lực từ ngày 30 tháng 12 năm 2021.
b) Sự cần thiết,
mục đích ban hành:
- Cơ sở chính trị, pháp
lý, cơ sở thực tiễn ban hành: Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19 tháng 6 năm
2020 của Quốc hội về việc phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc
gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu sốvà miền núi giai
đoạn 2021 - 2030; Nghị quyết số 973/2020/UBTVQH14 ngày 08 tháng 7 năm 2020 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về các nguyên tắc,tiêu chívà định mức phân
bổvốn đầu tư công nguồn ngân sách nhànước giai đoạn 2021 - 2025.
- Mục đích của việc
banhành văn bản quy phạm pháp luật: Làm căn cứ để lập kế hoạch đầu tư trung hạn
và hằng năm nguồn ngân sách nhà nước của Chương trình cho các cấp, các ngành và
đơn vị sử dụng vốn ngân sách nhànước.
c) Nội dung chủ
yếu: Quy định về
nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương và tỷ lệ vốn đối
ứng của ngân sách địa phương thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030,
giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025:
Bao gồm: 8 điều; nội dung
chủ yếu của văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm: phạm vi điều chỉnh; đối tượng
áp dụng; nguyên tắc phân bổ vốn; nguyên tắc phân bổ vốn ngân sách Trung ương
trung hạn và hằng năm; tiêuchí, định mức và phương pháp phân bổ nguồn vốn ngân
sách trung ương; quy định tỷ lệ vốnđốiứng của ngân sách địa phương thực hiện
Chương trình; danh mục10 phụ lục kèm theo.
32.Quyết định số
40/2021/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về Quỹ Hỗ trợ
việc làm ngoài nước
a)
Hiệu lực thi hành:Quyết
định có hiệu
lực từ ngày 21
tháng 02
năm 2022.
Quyết
định số 144/2007/QĐ-TTg ngày 31 tháng 8 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc
thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ Hỗ trợ việc làm
ngoài nước
hết hiệu lực kể từ ngày Quyết định này có hiệu lực thi hành.
b)
Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Thực hiện theo quy định Khoản 3 Điều 66
Luật số 69/2020/QH14 ngày 13/11/2020 về người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng.
c)
Nội dung chủ yếu:Quyết
định gồm 5 chương và 26 Điều, cụ thể như sau:
-
Chương I. Quy định chung (gồm Điều 1 và Điều 2) về
phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Quyết định;
-
Chương II. Quy định thành lập, tổ chức hoạt động,
quản lý Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước (từ Điều 3 đến Điều 6) bao gồm các nội
dung về cơ cấu tổ chức quản lý Quỹ; địa vị pháp lý của Quỹ; nguyên tắc hoạt
động, quản lý tài chính, tài sản, chế độ kế toán, kiểm toán và công khai tài
chính của Quỹ;
- Chương III. Mức đóng
góp Quỹ của doanh nghiệp và người lao động (gồm Điều 7 và Điều 8) quy định cụ
thể về mức đóng góp Quỹ của người lao động và doanh nghiệp dịch vụ đưa người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
- Chương IV. Nội dung chi
và mức chi đối với các nhiệm vụ của Quỹ (từ Điều 9 đến Điều 23) quy định nguyên
tắc hỗ trợ, mức hỗ trợ, hồ sơ và thủ tục hỗ trợ cho người lao động, doanh nghiệp
dịch vụ; nguyên tắc và nội dung hỗ trợ các hoạt động liên quan trực tiếp đến
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; nội dung và mức
chi quản lý Quỹ;
- Chương V. Tổ chức thực
hiện (từ Điều 24 đến Điều 26) quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức
liên quan, các nội dung đảm bảo thực hiện trong giai đoạn chuyển tiếp và hiệu
lực thi hành.
*
Phạm vi điều chỉnh:
- Quy định việc
thành lập, tổ chức hoạt động, quản lý và sử dụng Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước
- Mức đóng góp
vào Quỹ của doanh nghiệp và người lao động;
- Nội dung chi
và mức chi đối với các nhiệm vụ của Quỹ quy định tại Điều 67 của Luật Người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
*
Đối tượng áp dụng:
- Người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
- Doanh nghiệp
hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng.
-
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan đến việc thành lập, hoạt động, quản lý, đóng góp và sử dụng Quỹ.
*
Các nội dung chủ yếu:
- Về cơ chế hoạt
động và cơ cấu tổ chức quản lý Quỹ: Quỹ hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp
công lập tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư.
- Cơ cấu tổ chức bao gồm:
Hội đồng quản lý và Cơ quan điều hành Quỹ.
- Về nguồn hình
thành Quỹ,
gồm: đóng góp Quỹ của người lao động là 100.000 đồng/lao động/hợp đồng; đóng góp
Quỹ của doanh nghiệp là 150.000 đồng/lao động/hợp đồng. Ngoài nguồn thu đóng góp
của người lao động và doanh nghiệp dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng, Quỹ được bổ sung nguồn thu từ đầu tư của Quỹ và tiếp nhận
các khoản viện trợ, hỗ trợ hợp pháp khác. Phương thức đầu tư của Quỹ là sử dụng
tối đa 50% số kết dư Quỹ năm trước liền kề để gửi có kỳ hạn tại ngân hàng thương
mại Việt Nam.
-
Về nội dung và mức hỗ trợ
từ Quỹ: Quyết định quy định cụ thể các trường hợp hỗ trợ cho người lao động,
hình thức hỗ trợ và mức hỗ trợ. Hồ sơ, thủ tục đề nghị hỗ trợ của người lao động
được quy định đơn giản, dễ thực hiện cho người lao động. Quỹ hỗ trợ
doanh nghiệp dịch vụ đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trong hoạt động khai thác, phát triển thị
trường mới, mở rộng và ổn định thị trường lao động ngoài nước, hoặc giải quyết
vụ việc phức tạp, nghiêm trọng liên quan đến tính mạng, nhân phẩm, tài sản hợp
pháp của người lao động hoặc hỗ trợ đưa thi hài, di hài của người lao động bị
chết về nước. Bên cạnh đó, Quỹ hỗ trợ các hoạt động liên quan trực tiếp
đến người lao động như các hoạt động thông tin, tuyên truyền về thị trường lao
động ngoài nước, chính sách, quy định, pháp luật của nước tiếp nhận lao
động, pháp luật của Việt Nam về người lao động đi làm việc ở nước
ngoài, chính sách hỗ trợ từ Quỹ; Hỗ trợ xây dựng và duy trì cổng thông tin điện
tử của Quỹ, sàn giao dịch việc làm ngoài nước trực tuyến cho người lao động có
nhu cầu tìm hiểu, đăng ký đi làm việc ở nước ngoài và tìm kiếm việc làm sau khi
về nước; thiết lập và duy trì hoạt động của tổng đài điện thoại tư vấn cho người
lao động.
- Về tổ chức thực hiện:
Quyết định quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Bộ Tài chính, Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, Cơ quan lao động - Thương
binh và Xã hội thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong
quản lý và hỗ trợ hoạt động của Quỹ; trách nhiệm của doanh nghiệp, tổ chức sự
nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và cơ quan, tổ chức có liên
quan.
Trên đây là Thông
cáo báo chí văn bản
quy phạm pháp luật do Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng
12
năm 2021, Bộ Tư pháp xin thông báo./.
Nơi nhận:
- Bộ trưởng (để
báo cáo);
- Thứ trưởng
Nguyễn Thanh Tịnh (để báo cáo);
- Văn phòng
Chính phủ;
- Cổng Thông tin
điện tử Chính phủ;
- Báo Điện tử
Chính phủ;
- Cục CNTT Bộ Tư
pháp (để đăng tải);
- Báo Pháp luật
Việt Nam (để đăng
tải);
- Lưu: VT, VP
(TT).
|
TL.
BỘ TRƯỞNG
CHÁNH VĂN PHÒNG
(Đã ký)
Nguyễn Quốc Hoàn
|